DẶN-DÒ BỔN-ĐẠO
Tháng năm mười tám rõ-ràng,
Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo.
Xuống trần nhằm buổi nạn eo,
Gẫm trong dân-sự còn nghèo chữ tu.
Hạ-nguơn sanh-chúng ám-u,
Tây-Phương sắc lịnh vân-du Nam-kỳ.
Mượn nhằm một xác nhu-mì,
Giảng dân sáu tháng vậy thì xem sao.
Rất buồn bá tánh biết bao,
Nạn nguy sắp đến mà ngao-du hoài!
Viết ra giảng kệ bốn bài,
Giã-từ trần-thế lui hoài bôn-phi.
An-Nam phong-hóa lễ-nghi,
Đời nay văn-vật bỏ đi chẳng gìn.
Mảng lo chế nhạo chống kình,
Chẳng toan đạo-đức mà gìn thôn hương.
Ta đây dường thể như lươn,
Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu.
Sáu trăng Thầy tớ dãi-đầu,
Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi.
Bồng-Lai Điên dại có ngôi,
Tây-Phương Cực-Lạc Khùng ngồi tòa sen.
Từ-bi ngọn đuốc mới nhen,
Giả như mở cửa mà then còn cầm.
Dân tình xài-xể dập bầm,
Nào hay ta đã thương ngầm sanh linh.
Xác trần ta mở oai thinh,
Đạo mầu truyền pháp thình lình không hay.
Trớ-trêu con tạo thày-lay,
Lôi-âm sắc lịnh đòi rày hỏi han.
Cúi đầu tâu trước Phật đàng:
Lê dân ngoan-ngạnh xóm làng cừ-khôi.
Đầu đuôi tâu lại khúc nôi,
Một trăm mới đặng ối thôi mười người!
Mãng lo cao thấp ngạo cười,
Bởi chưng trần-hạ biếng lười không lo.
Di-Đà nghe tấu buồn xo,
Vạn dân bá tánh đắn-đo nhiều bề.
Làm sao cửa Phật dựa kề,
Hung sùng tàn ác khó bề dạy khuyên.
Thầy khùng trò lại hóa điên,
Khùng điên mấy tháng tình riêng ai ngờ!
Tượng xưa dấu cũ còn mờ,
Không lo tìm kiếm bến bờ mà nương.
Nói cho bổn-đạo đặng tường,
Dạy dân nào có gạt lường chi dân.
Chim ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót mấy lần ai hay.
Đời nầy chưa vẹn thảo ngay,
Thì là khó thấy mặt mày người xưa.
Dạy đời nào quản nắng mưa,
Ước mong bá tánh sớm ưa tu hành.
Đục trong bốn cuốn ngọn ngành,
Khuyên đời trau trỉa chữ lành cho xong.
Con người có Tổ có tông,
Học hay chữ nghĩa sao không phượng thờ?
Hiếu trung truyện tích sờ-sờ,
Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha.
Từ đây ta mắc bôn-ba,
Dời chơn ra Bắc đặng mà dạy khuyên.
Vạn dân nên trọng Phật Tiên,
Dể ngươi lời dạy dọa riêng một mình.
Bắc, Nam chờ đợi cuối Thìn,
Sẽ lo vận chuyển thân hình xác ta.
Viết thêm một khúc ngâm nga,
Dặn dò bổn đạo vậy mà mấy trương.
Ta dầu có cách thôn hương,
Vạn dân cứ chữ hiền lương mà làm.
Thích-Ca còn phế tước hàm,
Lầu cao cửa rộng mà ham tu hành.
Phật, tiên dụng kẻ lòng thành,
Đạo chơn thì ít ai hành thiệt tâm.
Trí phàm như chốn sơn lâm,
Dạy dân như phá rừng cầm cho dân.
Nào đâu dân có biết ân,
Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.
Đây nầy lời lẽ rán ghi,
Thương đời nên mới làm thi khuyên đời.
Ra đi dặn lại ít lời,
Khuyên trong bổn-đạo vậy thời rán nghe.
Dầu ai tài phép bày khoe,
Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.
Lựa cho phải cột phải kèo,
Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.
Ngọc kia ẩn dạng khó tầm,
Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.
Ách trời nạn nước thình-lình,
Người hung cứ mãi chống kình với ta.
Theo tài học cũ nôm-na,
Hỡi ai trí-thức tầm mà cạn sâu.
Lúc rày chưa thể ngồi lâu,
Tách dời chốn khác ngõ hầu dạy răn.
Tín-đồ cùng các chư-tăng,
Từ rày sắp đến nói năng chọn lời.
Bớt phiền bớt não cuộc đời,
Rán nghe lời dạy vậy thời hành y.
Đạo mầu bát-chánh rán ghi,
Thứ nhứt chánh-kiến việc chi xem nhìn.
Luận bàn chơn-lý cho minh,
Chuyên chi xét đoán xảo tinh mới là.
Thứ nhì chánh-mạng vậy mà,
Việc làm do lịnh tâm hồn khiến sai.
Thứ ba tư-duy bằng nay,
Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu.
Thứ tư chánh-nghiệp mặc dầu,
Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay.
Tà gian tánh ấy tù đày,
Của người tham nhũng nghề nầy chớ ham.
Thứ năm tinh-tấn hội đàm,
Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan.
Thứ sáu chánh-ngữ liệu toan,
Nói năng điều chánh thì an chớ gì!
Thứ bẩy chánh-niệm vậy thì,
Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm.
Thứ tám chánh-định chớ lầm,
Từ-bi hai chữ đứng nằm chớ quên.
Ngồi dâu cũng định mới nên,
Đừng cho công việc hớ-hênh với người.
Hành y thì đáng vàng mười,
Tùy lòng tùy sức của người đời nay.
Tu nhơn hiền hậu cũng hay,
Dạy đời phải viết ngày rày cho tinh.
Rút trong các luật các kinh,
Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.
Thấp cao các bực chớ chầy,
Kẻ ngu người trí nghe Thầy dạy khuyên.
Sớm khuya bá tánh cần chuyên,
Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề.
Ít lâu ta cũng trở về,
Khuyên cùng bồn-đạo chớ hề lãng-xao.
Trì lòng chớ có núng-nao,
Từ đây nhơn-vật mòn hao lần-lần.
Mấy lời nhắn lại ân-cần,
Bổn-đạo xa gần nghĩ cạn mới hay.
Tu trì nguyện ước cầu may,
Thượng-Nguơn hồi phục là ngày an cư.
Học câu hỉ-xả đại từ,
Noi gương nghĩa-sĩ dạ tư chớ gần.
Bôn Nam tẩu Bắc tảo tần,
Chúng-sanh rán nhớ thì gần cùng ta.
Xác trần ta đã rời xa,
Bá-gia ở lại vậy mà bình-an.
Kia-kia anh hố hò khoan,
Tình lang về mất hổ-han mặt-mày.
Sớm lo sắp đặt luyện tài,
Phật Trời phân định mặt mày mới xinh.
Ơn trên lượng rộng thinh-thinh,
Từ-bi khuyến dạy mặc tình nghe không.
Giống hiền như thể gieo bông.
Nhụy đơm thơm phứt màu hồng xuê-xang.
Dân ta dòng giống Tiên-bang,
Chớ đâu có giống ngỗ-ngang hung sùng.
Mặc tình bá tánh có dùng,
Ai muốn nghe Khùng chép lấy mà coi.
Lấy tâm lấy trí xét soi,
Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào?
Thôi thôi dân chớ hùng-hào,
Khùng từ bổn-đạo tẩu đào Bắc-đô
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ) Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn.
MUỐN RÕ ĐẠO MẦU
Đạo mầu diệt khổ có từ lâu,
Thần-Tú ra đời lại góp thâu.
Chuông mõ, sám kinh bèn cải sửa,
Xá phướn truyền-lưu lấp đạo mầu.
Niệm chữ A-Di dẹp lòng sầu,
Rán trì kinh-kệ hoặc mau lâu.
Cũng có ngày kia ta giải-thoát,
Giải-thoát thì ta rõ đạo mầu.
Tây-Phương Cực-Lạc Phật hằng-hà,
Ta rán bền lòng Phật chẳng xa.
Trong cõi trần mê còn mong đợi,
Thấy Phật trì tâm đến năm gà.
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn.
TRÔNG MÂY
Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa,
Ấy la tại lịnh Ngọc-tòa sai ta.
Xuống trần thấy chúng thiết-tha,
Vì đâu sắp đến hằng hà lụy rơi.
Chừng nào mới dặng thảnh-thơi?
Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân.
Tây-Vức liên Nam hiệp định phân,
Tam giáo qui nguơn viện lý cận.
Hùng anh Phiên-quốc lai hàng phục,
Đinh Hợi đáo niên tạo thiên nhân.
(Trong khi Đức Thầy cảm hứng) Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn.
LÝ-LỊCH
THƯỢNG thẩm đạo mầu nẻo cao sâu,
ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu.
ĐẠI pháp vô-vi là chơn lý,
THẦN làm trọn vẹn khởi lo âu.
Huỳnh long tưc thế gần sanh-chúng,
Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu.
Tiên cảnh thoát-ly truyền bá kỷ,
Năng tầm Phật-lý rạch từ câu.
Oai hùm chấn động một góc trời,
Độ chúng ra kinh rải khắp nơi.
Cứu thế chẳng mong ơn ai trả,
Nương xác phàm phu ngõ đợi thời.
Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn,
Tự giác âm thầm kiến Tiên-bang.
BỬU ngọc SƠN trung KỲ-HƯƠNG chí,
Tứ hải bất hòa khởi liên giang.
Hòa-Hảo, năm Canh Thìn.
KHUYÊN SƯ-VẢI
Trước đài sen báu ngát hương đăng,
Hai chữ nam-mô ấy lẽ hàng.
Thề-sự biếng đua bề lợi-hại,
Tâm-trần rửa sạch mới siêu-thăng.
Khuyên trong sư vãi mau mau tỉnh,
Luân hồi quả báo rất công bằng.
Mang tiến xuất gia sao chẳng liệu?
Đao-đức xong chưa hỡi chư tăng?
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
XUÂN-HẠ TÁC CUỒNG-THƠ
Sĩ điềm tịnh tiểu-nhơn lấn-lướt,
Thời-vận hèn dụng nhược thắng cang.
Cầu cho bốn biển bằng an,
Chúc câu lai thới xóm làng vĩnh-miên.
Xưng danh hiệu nửa Tiên nửa tục,
Đứng trung-thần gạn đục tầm trong.
Gìn câu thủ cựu gia phong,
Gom nhành lá rụng vun trồng giống xưa.
Tơ lòng nhiều đoạn đẩy-đưa,
Mong ơn Phật-Thánh phước thừa cho dân.
Chúng lấy thuyết vô thần bài bác,
Quyết một ngày thông đạt địa thiên.
Chúng-sanh nghe thửa lời truyền,
Cùng nhau thảo thuận danh hiền mới thơm.
Dốc chờ ngày sen đơm nhụy trổ,
Khỏi bùn lầy tông-tổ hiển vang.
Bá-Nha hiệp mặt tao-đàn,
Tử-Kỳ trổi giọng khải hoàn bốn phương.
Lòng chạnh cảm quê-hương nghèo-ngặt,
Các nước ngoài bán mắc hàng lên.
Ơn cha nghĩa mẹ phải điền,
Một ngày hiệp mặt lập nền từ-bi.
Những mơ-ước hồi qui thượng-cổ,
Thi hết câu ái-ố gièm-pha.
Phương Nam rạng ngọc chói lòa,
Lưu-ly hổ-phách mấy tòa đài cung.
Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực,
Quân cùng Thần náo-nức vui-tươi.
Liên-hoa đua nở nụ cười,
Rước tôi lương-đống chào người chơn tu.
Thế-gian thoát chốn ngục-tù,
Thần Tiên hiệp mặt thì cù hóa long.
Mất nhìn thấy thần thông biến hóa,
Đức Di-Đà hiện chóa hào quang.
Việt-Nam là giống Hồng-Bàng,
Không còn hung-bạo lăng-loàn như nay.
Dòm khắp chốn rồng mây chơi giỡn,
Dân hai lòng hết bỡn Khùng-Điên.
Thiên cơ biến ảo diệu huyền,
Hiệp chung tam cõi dưới miền trần ai.
Bút nghiên hạ viết bài an lạc,
Dẫu cho người dốt nát cũng nghe.
Kìa kìa con cuốc gọi hè,
Chẳng lo gieo giống đậu, mè, bắp, khoai.
Thi tả cảnh Bồng-Lai tại thế,
Mãi chần-chờ e trễ kỳ thi.
Muôn năm Trời định khắc kỳ,
Ngặt ông thất thủ Hạ-bì khó toan.
Ta điên thuở Tam-Hoàng Thượng-cổ,
Khùng thế thời khùng lộ ngoài da.
Ghét dòng con nịnh độc xà,
Khinh-khi trung nghĩa hải hà lòng nhơn.
Đường gai gốc thiên sơn vạn hải,
Dẹp cho rồi tướng bái đàn đăng.
Tử-Nha như thể cát-đằng,
Tùng quân dựa bóng vui bằng hưng Châu.
Các nơi Tiên-trưởng đâu đâu,
Lư-bồng hội hiệp đồng chầu Thánh-vương.
Trụ kia bạo-ác phải nhường,
Võ-vương hữu đức đường đường trị dân.
Thi rõ việc Phong-Thần trở lại,
Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương.
Con lành mau lại Phật đường,
Cùng Thầy cọng hưởng một vườn từ-bi.
Chớ nóng-nảy sân-si hư việc,
Phải đợi thời vua Kiệt hồi qui.
Xử phân những đứa vô nghì,
Mới là khỏa lấp vít tỳ ngọc son.
Khuyên rán giữ cho tròn đời đạo,
Đừng cho loài cầy cáo lung-lăng.
Yêu tinh chực nuốt Đường-tăng,
May nhờ Đại-Thánh phi đằng cức nguy.
Lôi-Âm tự đường đi chưa đến,
Nên giữa chừng kẻ mến người khinh.
Thôi thôi ta để mặc tình,
Dầu ai chê nhạo phận mình mình toan.
Hòa-Hảo, tháng tư năm Canh-Thìn.