"TỰ THÁN"
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Vì đâu bốc ngọn lửa Tần,
Mà lòng Tăng-Sĩ như dần nát tan.
Nghĩ mình chọn kiếp con hoang,
Quê hương rày đã dậm tràng sơn-xuyên.
Tổ-đường còn một cành huyên,
Từ-đường hôm sớm luống phiền chờ trông.
Hai em thiểu trí thơ-đồng,
Chị đà an phận theo chồng đàng xa.
Từ mang một tấm áo dà,
Mùi thiển đã thắm ơn nhà lợt phai.
Sống sanh ra phận râu mày,
Một đời một Đạo đến ngày chung thân.
Tuy là xa cách cố nhân,
Nơi đời tríu mến sớm gần cửa không.
Từ-bi buộc chặt cõi lòng,
Còn ơn cúc-dục để hòng mai sau.
Bể trần sóng cuộn lao-xao,
Xông thuyền bát-nhã lướt vào một phen.
Quản chi lực kém tài hèn,
Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.
Soi từ đài các xá lểu,
Cho người trụy-lạc biết đều nghĩa-nhân.
Tài tai hai chữ cân phân,
Trời ban họa phước một lần cho ta.
Mắt đen thấy mắt trắng lòa,
Phật ma, ma Phật mới ra vở tuồng.
Trời già tay khéo, khéo luôn,
Sắp chi chua ngọt pha buồn lẫn vui?
Năm canh luống những sụt-sùi,
Cám trong nhân-chủng lắm người dở-dang.
Sầu chung ta cất tiếng than,
Phù-sinh kiếp có đoạn tràng thì thôi.
Bon bon chuông giục mấy hồi,
Rầm rầm sấm nổ trên đồi xa xa.
Đầu canh tiếng động bên nhà,
Chờ ba canh một thì gà gáy tan.
Ngày xuân cách cội xa làng,
Người quê Quán-Chợ như thoàn linh-đinh.
Vừa cơn xóng gió bất bình,
Số trời đã định phận mình biết sao.
Ngày xưa mấy bực yên-hào,
Vào sanh ra tử dạ nào trách than.
Thân nầy đã ngấm trầm nhang.
Vui câu bác-ái bền gan đợi chờm,
Đêm khuya vằng lặng như tờ,
Vài hành nhủ hết chớ ngơ-ngẩn lòng.
Gắng tình đừng lắm ngóng trông.
Hung-tinh sao ấy trời Đông lờ-mờ.
Hềm vì mắc lá thiên-thơ,
Đôi đều ghi chép cõi bờ chưa xong.
Thôi thì lòng dặn lấy lòng,
Gẫm đây đến cuộc mây rồng chẳng xa.
Đêm khuya lác-đác sương sa,
Phòng khuya lạnh-lẽo có ta với phòng.
Gật-gù suy cuộc hưng vong,
Quyết xoay máy tạo gánh gồng chưa yên.
Trí thần nhớ đến tiếng quyên,
Gọi hồn cố-quốc sầu riêng một mình.
Trầm-ngâm vẻ mặt làm thinh,
Tựa mình bên gối giấc quỳnh đã say.
Mơ tiên hồn muốn vụt bay,
Nhà thương Chợ-quán, tháng chạp năm Canh-Thìn.
"TỈNH BẠN TRẦN GIAN"
Nghiệp chướng lăng-loàn hại xác thân,
Chuông lành buông tiếng vọng bon ngân.
Cương-thường gánh nặng trai gìn trọn,
Tơ-tóc vai quằn gái vẹn phân.
Nợ nước văn-chương toan báo đáp,
Ơn nhà đạo-đức quyết đền ân.
Khuyên nguồi trí-sĩ mau mau tỉnh,
Giấc mộng nam-kha chốn thế-trần.
Thế-trần tạm giả gạt đời ta,
Lướt khỏi sông mê khỏi ái hà.
Nhân-ngã, ngã-nhân đừng cách biệt,
Sắc không, không sắc chớ lìa xa.
Diệu-huyền chơn lý noi đường sáng,
Ảo-thuật tà-tâm kiếm nẻo ra.
Lóng-lánh gương xưa lời Phật dạy,
Hồng-trần ái-dục giết tài hoa.
Tài-hoa cho lắm, lắm nàn tai,
Trụy-lạc phong-trần chốn gốc gai.
Nếu đã tỉnh tâm tầm lẽ thẳng,
Cũng nên rèn tánh gặp đàng ngay.
Sân-si phỏng có điều thêm bận,
Nhẫn-nhịn ắt không chuyện kéo dài.
Tiếng gọi hồn mê hồn được giác,
Phải toan sắm-sửa rứt trần-ai.
Trần-ai chỉ có thú phong-lưu,
Tranh-dấu thành ra mãi oán cừ.
Chung cuộc chỉ mang câu thất vọng,
Xong đời ghi chất mối sầu ưu.
Cổ kim máy tạo nhiều huyền-bí,
Lão ấu xây vần lắm mẹo mưu.
Cũng chẳng cướp xong quyền võ-trụ,
Mà còn đeo đắm thú phong-lưu.
Phong-lưu nào phải gọi người ngoan,
Sa ngã biến nên kẻ khốn nàn.
Ngày đến, đến đi đâu kéo ngược,
Năm về, về mãi chẳng ngừng ngang.
Tuổi gia thân yếu đa sầu cảm,
Tóc bạc mình ve lắm rộn-ràng.
Biết được trần-gian là mộng huyễn,
Tử thần sửa soạn kéo vào quan.
Kéo vào quan-quách biết bao người,
Cảnh sống sum-vầy phỏng mấy mươi?
Lắm lúc đua chen vui lẫn giận,
Nhiều khi vùng-vẫy khóc pha cười.
Tuồng đời chuốt-ngót cho xong tiếng,
Cuộc thế trau-giồi mượn tấc hơi.
Nín thở nằm ngay không cựa quậy,
Xót thương con trẻ khóc đôi lời.
Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên,
Ma lớn chay to phí lắm tiền.
Tưởng vậy xác thân đa hạnh-phúc,
Nào hay hồn-phách lắm oan-khiên.
Thiên-đường siêu-thoát thời thong-thả,
Địa-ngục trầm-luân ắt đảo-điên.
Nên chọn một nơi thanh-tịnh ấy,
Rứt trần bất nhiễm mới là yên.
Mới là yên-ổn lánh trần-gian,
Chí nguyên tiêu-diêu cảnh Phật-đàng.
Diêu-pháp chuyển thân vô sự thế,
Huyền-thông hoá kiếp chẳng lo toan.
Tâm linh mắt thánh xem ba cõi,
Tánh hiền tai thần lóng bốn phang.
Phổ-tế chúng-sanh qua bể khổ,
Di-Đà miệng niệm lánh trần-gian.
Trần-gian khói lửa với đao binh,
Chư Phật sớm bày phép hiển-linh.
Cức khổ nam-mô vô lượng phước,
Diệt nàn tu-rị hữu thiên kinh.
Sóng xao dương-thế nhiều cay đắng,
Gió cuốn trần-gian nỗi bất bình.
Tín-nữ thiện-nam gìn mối đạo,
Dầu cho lăn-lóc rán kiên-trinh.
Kiên-trinh mà chịu lúc nàn tai,
Dẫu có gian-nan dạ chớ nài.
Vàng đá bao phen cơn nước lửa,
Chì thau lắm chuyện lúc non hài.
Bền gan chờ đợi ngày sum hiệp,
Gắng chí trông mong bữa tiệc khai.
Thiên địa tuần-huờn gom một mối,
Phàm-trần vẹn kiếp kiến Bồng-Lai.
Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn
Đức Thầy gởi ông MƯỜI (chú Đức Ông)
Ngày Tết đến, nương mực viết thay lời, trước kính bái tông đường, sau chúc mừng ông bà đặng muôn điều hạnh-phúc. Sau có hai bài thơ, xin ông xem chơi cho rõ điều tâm sự:
Xuân đến chúc mừng tuổi thúc ông,
Đàng xa không thể viếng môn tông.
Câu thơ cao hứng thay bầu rượu,
Bài phú vui mừng thế chậu bông.
Đạo-đức gắng công nên cách mặc,
Văn-chương rén chí chẳng phai lòng.
Ơn nhà tạm gác sau này trả,
Xin bớt đau lòng bớt ngóng trông.
Trước đã đem thân hiến Phật đài,
Chắc rằng sẽ được buổi trùng lai.
Ra công khai-hóa vì nhân-chủng,
Nhọc sức mở-mang bởi cốt-hài.
Sanh đấng nam-nhi toan xử thế,
Sống làm hiền-triết nghĩa gồm hai.
Thuận hòa trăm họ đời an-lạc,
Chừng ấy xe tiên thế dép giày.
Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn.
MƯỢN CÂY ĐUỐC HUỆ
Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp,
Quân-thần nhgĩa trong hữu thiên niên.
Vận phải bỉ trăm điều chua chát,
Thời đáo lai muôn chuyện ngọt ngon.
Nghĩ cuộc đời mà chan-chứa nỗi hao mòn,
Xem cảnh thế luống xót-xa niềm chích mát.
Đời nầy như thế người kia cũng thế,
Làm sao mà tránh khỏi việc lầm than.
Sống tranh đua khi chết cũng xương tàn,
Cho nên: Mượn đuốc huệ đánh tan mùi tục lụy.
Buồn vơi mượn bút tay đề,
Tu hành tâm đạo dựa kề Tiên-bang.
Nào nào trần thế có sang,
Sắp đều đau khổ nghèo nàn hỡi ai!
Thảm trong thế sự ngày nay,
Lắm điều lao-lý quá dài gian-nan.
Một tay tá quốc an bang,
Nước nhà vững đặt Hớn-đàng hiển vinh.
Bây giờ phải mượn kệ kinh,
Dắt-dìu trần-thế mặc tình nghe không.
Kêu thằng hay gọi là ông,
Cũng không có muốn ai hòng tôn-ti.
(Bài trên đây Đức Thầy gởi về nhà, một lượt với 2 bài thơ gởi ông Mười). Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn.
NHỔ BÀN THÔNG-THIÊN
(vì sợ liên-can vụ "Đạo tường" ở Tân-Châu, thuộc tình Châu-Đốc)
Đạo ác xảy ra rất thảm phiền,
Làm cho dân sự nhổ thông thiên.
Xô ngang ít bữa rồi trồng lại,
Thần Thánh đi xa khó rước liền.
Hòa-Hảo, hạ tuần tháng Giêng năm Canh-Thìn.