Lục Vân Tiên (蓼雲仙) là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19 và được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam Việt Nam. Tác phẩm được dịch giả Abel des Michels chuyển ngữ sang tiếng Pháp với tên gọi Lục Vân Tiên cổ tích truyện - Histoire de Luc Van Tien năm 1899.
Truyện Lục Vân Tiên (mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên) là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa.
Truyện Lục Vân Tiên được viết bằng thể lục bát, vì được in nhiều lần nên có nhiều văn bản khác nhau, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, truyện có 2082 câu thơ lục bát, kết cấu theo lối chương hồi.
Nghe rằng trong núi Thương Tòng,
Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
Đông Thành ngàn dặm còn xa,
Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".
Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than. (215)
Võ Công ra trước dỗ chàng,
Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành.
Ra đi đương lúc tam canh,
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Bỏ rồi rón rén bước liền,
Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa. (216)
Tiên rằng: "Các chú đưa ta,
Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.
Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,
Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên".
Lắng nghe vẳng tiếng hai bên,
Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.
Vân Tiên khi ấy hãi hùng,
Nghĩ ra mới biết Võ Công hại mình.
Nực cười con tạo trớ trinh, (217)
Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao.
Ngẫm mình tai nạn biết bao,
Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo. (218)
Trong hang sau trước quạnh hiu,
Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi.
Oan gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Đã đành xa cõi nhân gian,
Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co.
Đêm khuya ngọn gió thổi lò,
Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng. (219)
Năm ngày chịu đói khát ròng,
Nhờ ba hoàn thuốc đỡ lòng hôm mai.
Du thần xem thấy ai hoài, (220)
Xét trong mình gã có bài phù tiên.
Mới hay là Lục Vân Tiên.
Cùng nhau dìu dắt đều liền đêm ra.
Khỏi hang một dặm vừa xa,
Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông.
Du thần trở lại sơn trung,
Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.
Lão tiều cơm gói sẵn sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
Tới nơi đại lộ là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than.
Hay là yêu quái tà gian,
Rung cây nhát lão làm đàng hại nhân.
Lão tiều liền bước tới gần,
Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn.
Chi bằng lên tiếng hỏi han:
"Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"
Vân Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau.
Lão tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:
"ít người trong tuyết đưa than, (221)
Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương".
Vân Tiên nghe nói mới tường,
Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay:
"Ngửa trông lượng cả cao dầy,
Cứu trong một buổi ơn tày tái sinh.
Mai sau về tới Đông Thành,
Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi".
Lão tiều mới nói: "Thôi thôi,
Làm ơn mà lại trông người sao hay.
Già hay thương kẻ thảo ngay,
Này thôi để lão dắt ngay về nhà".
Tiên rằng: "Trong dạ xót xa,
Nay đà sáu bữa không hoà mùi chi. (222)
Lại thêm rũ liệt tứ chi,
Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".
Lão tiều vội ngửa áo tơi,
Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên,
Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".
Khỏi rừng ra tới ngã ba,
May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.
Lão tiều lật đật bôn trình, (223)
Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi.
Vân Tiên nghe tiếng cố tri,
Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.
Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh, (224)
Cớ sao nên nỗi thân hình thế ni?"
Tiên rằng: "Chẳng xiết nói chi,
Thân này nào có khác gì cây trôi.
Linh đinh gió dập sóng dồi,
Rày đây mai đó khôn rồi gian nan."
Minh rằng: "Đây khó hỏi han,
Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau."
Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu
Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
Hớn Minh quỳ gối lạy liền:
"Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành,
Này hai lượng bạc trong mình,
Tôi xin báo đáp chút tình cho ông".
Tiều rằng: "Vốn lão tình không.
Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quí mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày".
Vân Tiên nghe biết người ngay,
Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.
Lão tiều trở lại lâm sơn,
Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây. (225)
Tiên rằng: "Đã gặp khoa này,
Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?"
Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi,
Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.
Anh thời về trước tỉnh thân. (226)
Tôi thời mang gói sau lần ra kinh.
Đi vừa tới huyện Loan Minh,
Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.
Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì. (227)
Tôi bèn nổi giận một khi,
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
Mình làm nỡ để ai lo,
Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.
Án đày ra quận Sóc Phang,
Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây.
Vừa may mà gặp chùa này,
Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương".
Vân Tiên nghe nói thảm thương,
Lại bày một khúc tai ương phận mình.
Minh nghe Tiên nói động tình,
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thượng cội xuân huyên, (228)
Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
Trông con như hạn trông dào,
Mình này trôi nổi phương nào biết đâu.
Vừng mây giăng bạc trên đầu,
Ba năm chưa trọn một câu sanh thành. (229)
Hữu tam bất hiếu đã đành. (230)
Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.
Tưởng thôi như cắt ruột gan,
Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần".
Minh rằng: "Người ở trong trần,
Có khi phú quí có lần gian nan.
Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê.
Thôi thôi anh chớ vội về,
Ở đây nương náu toan bề thuốc thang.
Bao giờ hết lúc tai nàn,
Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.
Cam La sớm gặp cũng xinh, (231)
Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời. (232)
Nên, hư có số ở trời,
Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong". (233)
Vân Tiên khi ấy yên lòng,
Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.
Võ công làm việc trớ trinh, (234)
Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng,
Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
Ngày ngày trang điểm phấn dồi,
Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử Trực vừa về,
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.
Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,
Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền xa chơi. (235)
Thương chàng phận bạc trong đời,
Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng".
Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa,
Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình.
Trời sao nỡ phụ tài lành,
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.
Cùng nhau chưa đặng vuông tròn.
Người đà sớm thác ta còn làm chi?
Trong đời mấy bực cố tri,
Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm".
Công rằng: "Ta cũng thương thầm,
Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang. (236)
Thôi thôi khuyên chớ thở than,
Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
Tới đây thời ở lại đây,
Cùng con gái lão sum vầy thất gia. (237)
Phòng khi hôm sớm vào ra,
Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên.
Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên, (238)
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì!
Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?
Hay là học thói nước Tề,
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công?(239)
Hay là học thói Đường cung, (240)
Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân?
Người nay nào phải nhà Tần,
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm?(241)
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao?
Võ Công hổ thẹn xiết bao,
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua.
Thể Loan trong cửa bước ra.
Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.
Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng, (242)
Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
Chẳng ưng thời cũng làm khuây,
Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng".
Trực rằng: "Ai Lữ Phụng Tiên,
Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi. (243)
Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa.
Hổ hang vậy cũng người ta,
So loài cầm thú vậy mà khác chi?
Vân Tiên anh hỡi cố tri,
Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
Tay lau nước mắt trở ra,
Về nhà sắm sửa tìm qua Đông Thành.
Võ Công hổ thẹn trong mình,
Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan(244)
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang,
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.
Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga,
Hà Khê phủ ấy theo cha học hành.
Kiều Công lên chức thái khanh,
Chỉ sai ra huyện Đông Thành chăn dân. (245)
Ra tờ khắp hết xa gần,
Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi.
Khiến quân đem bức thư mời,
Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền.
Kiều công hỏi chuyện Vân Tiên.
Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.
Thưa rằng: "Nghe tiếng đồn vang,
Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây.
Biệt tin từ ấy nhẫn nay, (246)
Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang.
Kiều công trong dạ bàng hoàng,
Trở vào nói lại với nàng Nguyệt Nga:
"Lục ông nói lại cùng cha,
Duyên con rày đã trôi hoa giạt bèo.
Riêng than chút phận tơ điều, (247)
Hán Giang chưa gặp Ô Kiều lại rơi". (248)
Nàng rằng: "Phải thiệt như lời,
Xin cha sai kẻ mời người vào trong".
Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng,
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
Công rằng: "Nào bức tượng xưa,
Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn".
Lục ông một buổi ngồi nhìn,
Tay chân mặt mũi giống in con mình.
Chuyện trò sau trước phân minh,
Lục ông khi ấy sự tình mới hay:
Thương con phận bạc lắm thay,
Nguyền xưa còn đó con rày đi đâu?"
Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu,
Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên giải với nàng:
"Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
Người đời như bóng phù du, (249)
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng, (250)
Cũng chưa đồng tịch đồng sàng, (251)
Cũng chưa nên nghĩa tào khương đâu mà.
Cũng như cửa sổ ngựa qua,
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền".
Nàng rằng trước đã trọn nguyền,
Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ".
Công rằng chút nặng tình xưa,
Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
Lục ông cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi.
Ngỡ là con trẻ mất đi,
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này.
Bây giờ con lại thấy đây,
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào.
Ngửa trông đất rộng trời cao,
Tre còn măng mất lẽ nào cho cân".
Lục ông từ tạ lui chân,
Kiều Công sai kẻ gia thần đưa sang.
Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than,
Năm canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng:
"Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm lại vương lấy sầu.
Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ còn người mất trời ôi là trời.
Thề xưa tạc dạ ghi lời,
Thương người quân tử biết đời nào phai.
Tiếc thay một đứng anh tài,
Việc văn việc võ nào ai dám bì.
Thương vì đèn sách lòng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu.
Thương vì hai tám tuổi đầu,
Người đời như bóng phù du lỡ làng.
Thương vì chưa đặng hiển vang,
Nước trôi sự nghiệp hoa tàn công danh.
Thương vì đôi lứa chưa thành,
Vùa hương bát nước ai dành ngày sau. (252)
Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là".
Kiều công thức dậy bước ra,
Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.
Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang,
Gẫm trong còn mất là đàng xưa nay.
Đờn cầm ai nỡ dứt dây,
Chẳng qua con tạo đổi xây không thường"
Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương,
Khi không gãy cánh giữa đường chẳng hay.
Nay đà loan phụng lẻ bầy,
Niệm nghiêng gối chích phận này đã cam.
Trăm năm thề chẳng lòng phàm, (253)
Sông Ngân đưa bạn Cầu Lam rước người.
Thân con còn đứng giữa trời,
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi".
Kiều công trong dạ chẳng vui:
"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"
Có người sang cả ngôi cao,
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
Nghe đồn con gái Kiều công,
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương.
Thái sư dùng lễ vật sang,
Mượn người mai chước kết đàng sui gia. (254)
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,
Lễ nghi đưa lại về nhà thái sư.
Thái sư chẳng biết rộng suy,
Đem điều oán hận sớm ghi vào lòng.
Xảy đâu giặc mọi hành hung,
Ô Qua quốc hiệu binh nhung dấy loàn. (255)
Đánh vào tới ải Đồng Quan,
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần:
"Sao cho vững nước an dân,
Các quan ai biết mưu thần bày ra?"
Thái sư nhớ việc cừu nhà,
Vội vàng quỳ xuống tâu qua ngai vàng:
"Thuở xưa giặc mọi dấy loàn,
Vì ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa.
Muốn cho khỏi giặc Ô Qua,
Đưa con gái tốt giao hoà thời xong.
Nguyệt Nga là gái Kiều Công,
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.
Nàng đà có sắc khuynh thành,
Lại thêm rất bực tài tình hào hoa.
Đưa nàng về nước Ô Qua,
Phiên vương ưng dạ chắc là bãi binh".
Sở vương nghe tấu thuận tình,
Châu phê dạy sứ ra dinh Đông Thành.
Sắc phong Kiều lão thái khanh:
"Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi,
Nguyệt Nga nàng ấy nên người,
Lựa ngày tháng chín hai mươi cống Hồ".
Kiều công vâng lệnh nhà vua,
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào?
Nguyệt Nga trong dạ như bào,
Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
Thất tình trâm nọ biếng cài,
Dựa mình bỏ xả tóc dài ngồi lo:
"Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
Bởi người Diên Thọ hoạ đồ gây nên(256)
Hạnh Ngươn xưa cũng chẳng yên,
Bởi chưng Lư Kỉ cựu hiềm còn nghi. (257)
Hai nàng chẳng đã phải đi,
Một vì ngay chúa một vì thảo cha.
Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,
Thương vua nhà Hớn nàng đà quyên sinh.
Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì Linh,
Thương người Lương Ngọc duyên lành phui pha.
Tới nay phận bạc là ta,
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
Tình phu phụ nghĩa quân thần,
Nghĩa xa cũng trọn ơn gần cũng nên.
Nghĩa tình nặng cả hai bên,
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
Sao sao một thác thời xong, (258)
Lấy mình báo chúa lấy mình sự phu".
Kiều công thương gối đương lo,
Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.
Kêu vào ngồi dựa trướng tiền,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh:(259)
"Chẳng qua là việc triều đình,
Nào cha có muốn ép tình chi con".
Nàng rằng: "Con kể chi con,
Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.
Thương cha tuổi hạc đã cao,
E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
Tuổi già bóng xế nhành dâu,
Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?"
Công rằng: "Chẳng sá việc nhà,
Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.
Hôm nay đã tới mùng mười,
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành".
Nàng rằng: "Việc ấy đã đành,
Còn lo hai chữ ân tình chưa xong.
Con xin sang lạy Lục ông,
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền.
Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau".
Kiều công biết nghĩ trước sau,
Dạy cho tiền bạc cấp hầu đưa đi.
Lục ông ra rước một khi,
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.
Ngày lành giờ ngọ đăng đàn.
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
Mở ra bức tượng treo lên,
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:
"Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay".
Bảy ngày rồi việc ma chay,
Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:
"Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.
Rày vua gả thiếp về Phiên,
Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
Chẳng chi cũng gọi là dâu,
Muốn lo việc nước phải âu việc nhà.
Một ngày một bước một xa,
Của này để lại cho cha dưỡng già".
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,
Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.
Các quan xe giá bộn bề,
Năm mươi thể nữ hầu kề chân tay.
Hai mươi nay đã đến ngày,
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên,
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.
Công rằng: "Thật dạ xót xa,
Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu".
Nàng rằng non nước cao sâu,
Từ đây xa cách con hầu thấy cha.
Thân con về nước Ô Qua,
Đã đành một nỗi làm ma đất người.
Hai phương Nam Bắc cách vời,
Chút xin gởi lại một lời làm khuây.
Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha".
Kiều công lụy ngọc nhỏ sa,
Các quan ai nấy cũng là đều thương.
Chẳng qua việc ở quân vương,
Cho nên phụ tử hai đường xa xôi.
Buồm trương thuyền vội tách vời,
Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông.
Mười ngày đã tới ải Đồng,
Mênh mông biển rộng đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ,
Nguyệt Nga nhỡ nỗi tóc tơ chẳng tròn.
Than rằng nọ nước kìa non,
Kiểng thời thấy đó người còn về đâu?"
Quân hầu đều ngủ đã lâu,
Lén ra mở bức rèm châu một mình:
"Vắng người có bóng trăng thanh,
Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
Vân Tiên anh hỡi có hay,
Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng".
Than rồi lấy tượng vai mang,
Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.
Kim Liên thức dậy mới hay,
Cùng quân thể nữ một bầy đều lo.
Cùng nhau lặng chẳng dám hô,
Thầm toan mưu kế chẳng cho lộ tình:
"Việc này là việc triều đình,
Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan.
Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng,
Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.
Trá hôn về nước Ô Qua,
Ai mà vạch lá ai mà tìm sâu?"
Tính rồi xong xả chước mầu,
Phút nghe thuyền đã đến đầu ải quan.
Đốc quan xe giá sửa sang,
Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên.
Nào hay tì tất Kim Liên,
Đặng làm hoàng hậu nước Phiên một đời.
Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,
Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày.
Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,
Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung.
Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay.
Quan âm thương đấng thảo ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.
Dặn rằng: "Nàng hỡi Nguyệt Nga,
Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày.
Đôi ba năm nữa gần đây,
Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi".
Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi,
Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao.
Nên hư chưa biết làm sao,
Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân?
Một mình luống những bâng khuâng,
Phút đâu trời đã rạng hừng vừng đông.
Một mình mang bức tượng chồng,
Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn.
Ông rằng: "Nàng ở hà phương,
Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?"
Nàng rằng: "Trận gió hôm qua,
Chìm thuyền đến nỗi mình ra thế này.
Tối tăm sẩy bước tới đây,
Xin soi xét tới thơ ngây lạc đàng".
Bùi ông đừng ngắm tướng nàng.
Chẳng trang đài các cũng hàng trâm anh.
Đầu đuôi han hỏi sự tình,
Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua.
Bùi ông mừng rước về nhà,
Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con.
Rằng: "Ta sanh đặng chồi non,
Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở kinh.
Trong nhà không gái hậu sinh,
Ngày nay đặng gặp minh linh phước trời".
Nguyệt Nga ở đã yên nơi,
Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa.
Một lo về nước Ô Qua,
E vua bắt tội cha già rất oan.
Hai lo phận gái hồng nhan,
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì. (260)
Nguyệt Nga luống những sầu bi,
Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.
Chú thích:
215. Nhà cầu: nhà phụ làm lối đi thông nối hai nhà chính.
216. Gay: vặn quai chèo chặt vào cọc chèo.
217. Trớ trinh: trớ trêu.
218. Cheo: loài nai xạ hương.
219. Thổi lò: thổi lùa mạnh vào một nơi. Mưa tro: mưa bụi, mưa phùn.
220. Du thần: thần đi xem xét chốn dân gian.
221. Trong tuyết đưa than: gặp trời giá tuyết đưa giúp người than sưởi.
222. Không hoà mùi chi: không ăn uống gì.
223. Bôn trình: lên đường.
224. Nhơn huynh: người anh tốt.
225. Hoàn: trở về. Am mây: chùa nhỏ hẻo lánh.
226. Tỉnh thân: thăm nom cha mẹ.
227. Cưỡng bức phụ nữ, bất chấp đạo nghĩa.
228. Xuân huyên: cha mẹ.
229. Để tang ba năm cũng chưa đủ báo đáp công sinh thành của cha mạ.
230. Hữu tam bất hiếu: ba điều bất hiếu.
231. Cam La: mưu sĩ thời Chiến quốc.
232. Khương Tử Nha (xem CT 119).
233. Bôn chôn: nôn vội.
234. Trớ trinh: Trớ trêu.
235. Huỳnh tuyền: suối vàng.
236. Sắt cầm: tình duyên.
237. Thất gia: chỉ vợ chồng.
238. Nhắc lại chuyện làm thơ tỏ tình gắn bó.
239. Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết Tử Củ, chiếm vợ của em.
240. Đường cung: cung vua Đường.
241. Bất Vi kén trong số vợ mình, một người tuyệt đẹp đã có mang, dâng cho Tử Sở làm vợ. Thái tử Sở lên làm vua, tức Trang Tương vương. Ba năm sau chết, con Sở (thực chất là con Bất Vi) lên ngôi Tần Vương (Tần Thủy Hoàng).
242. Tục truyền thơ trông bóng trăng mà chửa. Nằng nằng: quyết một bề không đổi.
243. Điêu Thuyền dùng kế mĩ nhân quyến rũ Lã Bố và Đổng Trác, khiến Bố giết Trác.
244. Có điều trái với ý mình mà đâm ra uất ức phiền muộn.
245. Chăn dân: trị dân, cho dân yên ổn làm ăn.
246. Nhẫn nay: đến nay, tới bây giờ.
247. Tơ điều: tơ đỏ xe duyên.
248. Nguyệt Nga chưa nên nghĩa vợ chồng với Vân Tiên, cũng như Chức nữ, Ngưu lang chưa kịp gặp nhau trên sông Ngân mà nhịp cầu Ô đã rơi mất, không bao giờ gặp lại được nữa.
249. Phù du: là loại sâu bọ cánh màng có ấu trùng sống ở nơi nước chảy, đến khi trưởng thành chỉ sống một thời gian rất ngắn trên không. Đó là loại côn trùng sớm sinh tối mất. Như vậy, phù du để chỉ cuộc sống tạm bợ của con người, một cuộc sống quá là ngắn ngủi.
250. Công phu lỡ làng: bỏ sức ra làm dang dở.
251. Đồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu.
252. Vùa hương bát nước: bát hương và chén nước thờ.
253. Vừa đưa chồng về lại bên kia sông Ngân, thì đã lại đến Cầu Lam rước người tình khác. ý nói mất chồng này tìm chồng khác.
254. Mai chước: người làm mai mối.
255. Ô Qua: tên ngầm chỉ giặc Qua Oa ở bể vào cướp phá miền Châu Đốc, Hà Tiên.
256. Chiêu Quân thời Hán Nguyên đế bị tuyển làm cung nữ. Nàng không chịu đút lót cho Mao Diên Thọ nên bị y vẽ xấu đi, vua không vời đến. Về sau bị chọn tiến vua Hung Nô.
257. Hạnh Ngươn: Nhân vật truyện Nhị Độ Mai.
258. Sao sao: dù thế nào đi nữa.
259. Thân danh: thân mình và danh dự.
260. E rằng người che chở và nuôi nấng mình có mưu toan gì?