CHO THẦY ĐỘI GIÀU (*)
Chúc thầy trong năm mới,
Đạo tâm càng phấn khởi.
Mở rộng cửa từ-bi,
Giúp người đang mong đợi.
Mong đợi được tu-hành,
Thầy nên giảng việc lành.
Cho người mê giác-ngộ,
Là phổ-tế chúng-sanh.
Chúng-sanh đang thảm-đạm,
Bởi tội ác gây ra.
Bần-tăng thường khẩn-nguyện,
Mong trăm họ thái hòa.
(*) Thầy đội Giàu là nhân-viên sở Mật-Thám Bạc-Liêu và thuộc phái Tịnh-Độ Cư-Sĩ. Bạc-liêu, Tết năm Nhâm-Ngũ (1942)
Cho ông TRẦN-QUANG-HẠNH
TRẦN tâm rứt sạch cuộc mê-si,
QUAN-sát Đạo mầu nẻo ẩn vi.
HẠNH đức vun bồi thêm rạng tỏ,
Thoát phàm theo dõi gót Từ-Bi.
Bạc-liêu, Tết Nguyên-Đán năm Nhâm-Ngũ (1942)
Thức Tỉnh Một Nữ Tín-Đồ ở BẠC-LIÊU
Trót đã qui-y giữa Phật-đài,
Nguyện rằng đệ-tử dứt trần ai.
Mong nhờ đuốc huệ soi đường tối,
Chớ nhiễm nghiệp phiền chớ đắm say.
Đắm say một phút cội lành xa,
Sớm tỉnh trì tâm chống quỉ tà.
Dõi gót theo Thầy nương Phật cảnh,
Vui vầy xem hội, hội Long-Hoa.
Long-Hoa Tiên-Phật đáo ta-bà,
Lừa lọc con lành diệt quỉ ma.
Nếu mải mê-man mùi tục lụy,
Linh hồn chìm đắm chốn nê-hà.
Lòng Thầy chua xót ruột Thầy đau,
Nghe được lời khuyên tỉnh với nào !
Kiếm huệ dứt xong rồi quả báo,
Lo gì cửa Phật chẳng chen vào.
Cuộc trần, ôi quá khổ !
Trường đỏ đen là chổ nhuốc-nhơ.
Biết bao người vì nó phải bơ-vơ,
Sự nghiệp hết gia-đình tan nát.
Sớm tỉnh ngộ lên đường giải-thoát,
Lánh xa trường đổ bác chớ chen chân.
Nếu lỡ cơ mua tảo bán tần,
Thân-trí cực, nợ lần-khân chẳng dứt.
Chi cho bằng:
Qui y thì khá làm y,
Giữ lòng thanh-tịnh từ-bi giúp đời.
Bạc-liêu, 6-3 Nhâm-Ngũ (20-4-42)
Cho ông Cò tàu HẢO (Sài-Gòn)
Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật,
Cung kính Phật, cung kính Pháp, cung kính Tăng.
Tam-qui ngũ-giái lòng hằng gìn theo.
Chúc ông thoàn nhã vững lèo,
Qua bờ giác-ngạn sớm treo gương mầu.
Nơi cõi tạm sông sầu bể khổ,
Làng ngựa xe cám-dỗ tao-nhân.
Gây ra lắm nợ phong-trần,
Luân-hồi sáu nẻo khôn lần bước ra.
Rày tỉnh-ngộ ái-hà quyết dứt,
Đèn đạo tâm sáng rực soi đường.
Cầu tu cho đạt ngũ-hương,
Huơi gươm trí-huệ Ma-vương hãi-hùng.
Làm cho chúng phục-tùng chơn-lý,
Trong sắc-thân giám-thị lục-căn.
Đừng cho chúng tính lăng-quằng,
Ngoài thì chấp thủ mà ngăn lục-trần.
Phá ngũ-uẩn rứt lần tham ái,
Cội sân si cũng phải tảo-trừ.
Đem về giác-tánh chơn-như,
Kim-thân thị hiện dứt trừ tử sanh.
Đem tâm hồi hướng gốc lành,
Làm tôi Phật-Tổ chí thành chí chơn.
Dầu mắc phải mưa đơn gió kép,
Cũng chuyên trì mà dẹp gai chông.
Ngày nào đắc được lục-thông,
Vớt hồn cha mẹ, Tổ-Tông bảy đời.
Về Cực-Lạc thảnh-thơi an-dưỡng,
Ấy là ngày ban thưởng công tu.
Chúc cho đó vẹt mây mù,
Vững-vàng bất thối công-phu vuông tròn.
Đến ngày biển cạn non mòn,
Tứ-ân đã trả chẳng còn tội căn.
Nay ông nhập tự làm tăng,
Trước sau tuy khác thiện-căn vẫn đồng.
Lắng tai nghe được tin hồng,
Tờ hoa ít chữ gọi lòng chia vui.
Bạc-Liêu, ngày 25-4 Nhâm-Ngũ (8-6-42).
CẢM TÁC
(Đức Thầy cảm tác viết bài nầy vì ông Nguyễn-văn-Ngọ ở Bạc-liêu nghi Ngài cản-trở việc ông ta muốn kết nghĩa thông-gia với ông ký Giỏi ở Bạc-liêu)
Ngồi mà ngẫm nghĩ chuyện xưa,
Thánh-Hiền chẳng biết sao vừa lòng dân.
Đem thân mà rứt nợ trần,
Nợ trần đau khéo chần ngần chun ra.
Nhìn đời lụy muốn ứa sa,
Thế-gian đui tối nửa ma nửa người.
Muốn reo vang một tiếng cười,
Nhưng lòng chẳng nỡ khi người mê-si.
Đâu thông pháp-luật từ-bi,
Gán cho Tăng-Sĩ làm chi sự đời.
Con thuyền bát-nhã xa khơi,
Dầu cho sóng gió rã-rời cũng cam.
Thường nhơn là tánh tục phàm,
Biết đâu tội phước luận-đàm tương lai.
Tình trường đầy dẫy thi hài,
Lạ gì chẳng biết những bài học xưa.
Thánh-nhơn còn hỡi răn chừa,
Huống chi Phật-đạo tam thừa qui mô.
Sa-môn chí những tín-đồ,
Mai-dong cản mối tựa hồ gớm-ghê.
Một là gây nghiệp trần-mê,
Hai là tan-nát phu-thê một đời.
Lòng ta trong sạch người ơi,
Người sao chẳng xét luận lời phi ngôn.
Cờ nguy ngựa chốt đánh dồn,
Trước sau cũng chữ vong-tồn an nguy.
Tỏ lời tâm huyết lâm ly,
Mong ai ngộ nhận quyết-nghi duyên trần.
Trách lầm mang nghiệp vào thân,
Chỉn e vai-vác Thánh Thần chép biên.
Phận ta nối gót Phật Tiên,
Ngợi khen cũng mặc điêu huyền cũng hay.
Thương đời phải chịu đắng cay,
Thân danh chẳng quản, chông-gai chi sờn.
Ít ai nghe rõ giọng đờn,
Của người rứt bỏ oán ơn cõi phàm.
Ngày hằng giái ngũ qui tam,
Sắc không, không sắc tánh phàm đổi thay.
Chẳng qua tai-ách những ngày,
Nên phần xác-thịt đọa đày trần-gian.
Lìa quê tách bước xa ngàn,
Gia-đình chẳng đoái còn màng chi ai.
Dốc tâm nguyện đến Phật-đài,
Hiệp cùng chư Phật độ rày chúng-sinh.
Nện vang một tiếng chuông linh,
Cho người trong mộng biện minh lẽ nào.
Gẫm cuộc thế chẳng qua tuồng mộng-ảo,
Cuộc truy-hoan thường giết khách tài-hoa.
Nghe chuông linh sớm dứt bể ái-hà,
Kẻo vật-dục cuốn lôi vào bể-khổ.
Ví dầu lập chữ công-danh,
Đến khi rốt cuộc cũng đành thả trôi.
Lá úa vàng nó rụng người ôi!
Muôn năm mới có một thời,
Tới kỳ hiệp (*) hội Phật Trời định phân.
Con lành đều đủ nghĩa-nhân,
Cha là Phật, Thánh, Tiên, Thần phước dư.
Có đâu như thể bây chừ,
Loạn-luân cang-kỷ bất từ, bất lương.
Thân ta dầu lắm đoạn trường,
Cũng làm cho vẹn chữ thương nhơn-loài.
Ngày kia thỏa chí làm trai,
Tiếng lành như thể hương bay nực-nồng.
Bây giờ bờ bến chưa xong,
Dở-dang thời vận mà lòng chẳng nao.
Ngàn xưa mấy bực anh hào,
Nằm gai nếm mật dạ nào trách than.
Trượng-phu chí cả dọc-ngang,
Dạo trong bốn biển mới trang Thánh-Hiền.
Làm cho kẻ bạo ngửa-nghiêng.
Đạo lành mở cửa nơi miền Nam-bang.
Tiếng đờn hò líu cống xang,
Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh.
Thu còn gặp lúc trăng thanh,
Vang lời thỏ-thẻ như cành ghẹo chim.
Thấy trong người ấy thanh-liêm,
Tỏ bày tâm sự rán tìm cho ra.
Bồi-hồi chợt tỉnh Nam-kha,
Đường danh nẻo lợi xem ra ích gì.
Trời thu ảm đạm ai-bi,
Nạn tai vương-vấn bời vì Trời riêng.
Thảm thương lê-thứ ưu phiền,
Chớ lòng đâu có lo riêng nỗi mình.
Mờ mờ tỏ tỏ xinh xinh,
Đêm nay bóng nguyệt như rình xem ta.
Miệng cười ta bảo Hằng Nga,
Làm ơn rọi chữ “San-Hà” nơi đâu,
Gẫm trong cõi tạm nhiệm mầu,
Ngặt mang xác thịt khó hầu cao bay.
Chữ tài thường gặp chữ tai,
Trớ-trêu tạo-hóa ông bày trò chua.
Ta nào có muốn tranh đua,
Vun trồng cội phúc chờ mùa trổ bông.
Bay mùi thơm cả Tây-Đông,
Bắc, Nam nhơn-vật Lạc-Hồng thảnh-thơi.
Tâm hồn hoài cảm nơi nơi,
Gẫm người hữu chí đôi lời cám ơn.
(*) Có chỗ chép: Tới kỳ lập hội… Bạc-liêu, ngày 29 tháng 6 Nhâm-Ngũ (1942)
BUỒN
Buồn thay chư Phật ẩn non đoài,
Buồn biết bao giờ trở gót hài.
Buồn thấy chúng-sanh đa xót cảm,
Buồn lo trăm họ nghiệp gây hoài.
Buồn đời lưu-lạc trong u tối,
Buồn thế gian-nan suốt cả ngày.
Buồn buổi cạnh tranh e hoãn đạo,
Buồn dân ngu-muội ghét người ngay.
TỦI
Tủi sầu Phật giáo ở non Tần,
Tủi phận môn-đồ quá tối-tân.
Tủi cuộc hôn-nhơn bày trước Phật,
Tủi cơ-nghiệp báu phế nguồn ân.
Tủi thay ai tạo trò vô lý,
Tủi bấy lấp nguồn đạo hữu chân.
Tủi hổ trông nhìn người dối thế,
Tủi duyên ác-cảm đắm hồng trần.
Bạc-liêu, ngày 29 tháng 6 Nhâm-Ngũ (1942).
Gởi Bác-Sĩ CAO TRIỀU-LỢI ở Bạc-Liêu
(để cảm tạ ông nầy chữa bịnh cho Đức Thầy mà không lấy tiền thuốc)
Gởi ít hàng thăm ông bác-sĩ,
Cầu chúc ông phước chỉ được lai tăng.
Cuộc thế trần nhiều đoạn khó-khăn,
Nên lôi kéo bần-tăng vào cảnh ngộ.
Xuống Bạc-liêu chưa bao nhiêu độ.
Bỗng ruột tằm quằn-quặn rứt đau.
Phần thương dân phổi héo gan xào,
Ngồi, đi, đứng, nằm lăn-lóc mãi.
Cũng nhận được trần-hoàn là khổ hải,
Dốc tầm đường phóng giải cho thân tâm.
Dìu nhơn-sanh khỏi chốn mê lầm,
Bờ giác ngạn kiên tâm lần bước tới.
Hoàn-cảnh chẳng gặp hồi lai thới,
Ẩn-nhẫn hoài chờ đợi vận hanh thông.
Để đem phô trí óc với gan lòng,
Đền-đáp lại cuộc chờ trông ngoài ngõ.
Cũng rất thẹn bịnh đau vò-võ,
Tuy thuốc dùng chẳng tuyệt được cơn đau.
Chớ ơn ông đâu dễ quên nào,
Muốn đáp lại lấy chi mà đền đáp?
Nếu ông có vui lòng dung-nạp,
Tỏ vài hàng gọi đáp ân nhau.
Phần phước duyên nguyện để về sau,
Khi thong-thả sẽ đến trao lời cảm tạ.
Cám ơn ông tặng thuốc Tây-phương,
Khâu giúp bần tăng khúc đoạn trường.
Nhưng bịnh trầm-ưu nên chẳng mạnh.
Nợ cùng bách tính hỡi còn vương.
Vương-vấn trong vòng cương tỏa ấy,
Lòng nào mà chẳng xót thương chung.
Bao giờ đạo pháp ta thông đạt,
Quyết cứu sanh-linh cảnh não-nùng.
Thôi cũng an lòng nơi số phận,
Đợi chờ vận tới sẽ tuông mây.
Về trên thượng-giới đền Kim-khuyết,
Tâu lại trần-gian cớ sự nầy.
Bạc-liêu, ngày 18-7-42 (Nhâm-Ngũ)
Cho thằng TÂN
(Tân là cháu ngoại ông Võ-văn-Giỏi ở Bạc-liêu)
Nghe lời ông dạy hỡi con Tân!
Học tập muốn nên phải rán cần.
Chớ có biếng lười theo lũ trẻ,
Ắt đòn bể đít hỡi con Tân!
Con Tân có tật đái dầm,
Bởi vì biếng nhác mê tâm quen đời.
Quen đời tuổi đã hai tư,
Mà còn chẳng bỏ thói hư thói hèn,
Muốn cho cha mẹ ngợi-khen,
Từ rày nên rán tập rèn cho siêng.
Ông bà có sẳn của tiền,
Lại thường làm ruộng phước-duyên để dành.
Lớn lên ăn ở cao-thanh,
Biết yêu, biết quí, điều lành nghe con!
Bạc-liêu, ngày 3-7 Nhâm-Ngũ (14-8-42)
HOÀI CỔ
Bình tâm cất bút tỏ lời,
Xét xem hai chữ vận thời còn xa.
Liếc nhìn thế-giới can qua,
Ngàn muôn binh tướng xua ra chiến trường.
Dốc lòng tranh bá đồ vương,
Đeo câu danh-lợi lấp đường nghĩa-nhân.
Gieo điều tàn-khốc cho dân,
Khiến lòng Tăng-Sĩ bâng-khuâng lo lường.
Tiếc thay đạo-nghĩa luân-thường,
Thánh-nhơn đã vạch sẵn đường từ xưa.
Để cho quân-tử lọc-lừa,
Ở ăn hợp lẽ rán chừa tiểu nhân.
Trên vua minh chánh cầm cân,
Dưới quan liêm-tiết xử phân công-bình.
Quyền cha quản xuất gia-đình,
Dạy con phải phép vẹn gìn hiếu trung.
Từ ngày cách mặt cửu-trùng,
Thay đời đổi cách bất tùng Thánh-Tiên.
Bút lông dẹp với diã nghiên,
Thế vào bút sắt cùng viên mực tròn.
Lần lần thế đạo suy mòn,
Nền xưa nếp cũ, hỡi còn mấy ai.
Nên ta thở vắn than dài,
Cúi đầu lạy Phật niệm hoài mấy câu.
Dứt trần mang bộ sồng nâu,
Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm.
Đừng gây chinh-chiến ù ầm.
Để gây hạnh-phúc mà tầm Phật Tiên.
Ta-bà thật cảnh ưu phiền,
Duyên trần cấu kết oan khiên báo đền.
Thiều-quang thấm-thoát dường tên,
Mắc vòng sanh-tử có bền được đâu.
Chi bằng theo học Đạo mầu,
Sớm qua khổ hải theo hầu Phật Tiên.
Tham chi giả tạm của tiền,
Như chim vào lưới xích-xiềng trói thân.
Tính xong món nợ lần-khân,
Thoát vòng cương tỏa pháp-thân nhẹ-nhàng.
Tiêu diêu đạo đức luận bàn,
Vân du võ-trụ thanh-nhàn biết bao.
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)
DỤNG KINH-QUYỀN
Hỡi ôi! Trời đất mấy muôn trùng,
Muốn dụng kinh-quyền đạt hiếu trung.
Ngặt nỗi thân phàm vương-vấn nạn,
Trường thi chưa mở trống chưa thùng.
Trống chưa thùng sĩ-tử vẫn chờ trông,
Mong ngóng mau mau thấy mặt rồng.
Bảng-hổ danh đề tên chí-sĩ,
Đem tài thao-lược giúp non sông.
Giúp non-sông trong lúc chịu gian-truân,
Thảm-lệ tràn tuôn mãi chẳng ngừng.
Mịt mịt mờ mờ mưa gió đạn,
Phong-trần đày-đọa mấy mươi xuân.
Mấy mươi xuân vắng chúa, trông hoài,
Thân gởi nơi người nợ chẳng vay.
Trời đất lẽ nào không xét đến,
Để cho dân Việt khổ lâu dài.
Khổ lâu dài nay sắp mãn hay chưa,
Cầu nguyện Phật trời gội móc mưa.
Kíp mở Long-Hoa xây máy tạo,
Cho dân Hồng-Lạc thọ ân thừa.
Thọ ân thừa mà được cảnh nhàn an,
Trăm họ đầu đê trước Thánh-Hoàng.
Nguyện giữ cang-thường gìn Phật-đạo,
Giao-hòa mãi mãi với lân-bang.
Với lân bang sẽ dứt mối thâm thù,
Trên dưới một lòng chí nguyện tu.
Chẳng dám trễ-bê đường đạo-đức,
Đặng mong chẳng vướng cảnh ao-tù.
Cảnh ao-tù giờ vẫn phải còn mang,
Nặng trịu trên đầu héo ruột gan.
Chí dốc thoái-ly vòng xích tỏa,
Cầu trên Thánh-chúa vững ngai vàng.
Chúa vững ngai vàng sãi mới yên,
Rời ngay cảnh tục trở về tiên.
Chẳng còn tham-luyến nơi trần-thế,
Vì cả thế-gian hết não phiền.
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)
RỨT CÁI NGU ĐẦN
Vướng nghiệp trần-hoàn bởi quả nhân,
Gây ra kiếp số chịu phong-trần.
Nay nhờ đuốc huệ soi đường tối,
Đặng rứt cái ngu lẫn cái đần.
Muốn bán cái ngu lẫn cái đần,
Ngu đần cả nước lẫn cùng dân.
Sớm lo lòn cúi chiều ăn ngủ,
Nào biết liệu toan gỡ nợ-nần.
Nợ-nần tiên-tổ tạo gây nên,
Con cháu ngày nay phải báo đền,
Đành thế, nhưng vừa lời với vốn,
Lẽ gì chịu dại trả ngông-nghênh?
Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942).