THU ĐÃ CUỐI
(Bài nầy không có tựa. Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Thu đã cuối bấc lai-rai thổi,
Xét cõi lòng chạnh nỗi thương tâm.
Canh tràng thổn-thức đứng nằm,
Phiền-ba xe ngựa ù-ầm bên tai.
Nguồn mây bạc cuốn quay mũi viết,
Chấm vào nghiên chi xiết ngại-ngùng.
Cũng bung sao lại khuấy bung,
Một bầy ngơ-ngác cội tùng còn xa.
Thấy Tăng-Sĩ thiệt-thà hữu chí,
Vội đem lòng ích-kỷ hại nhân.
Ôi, đời yếm cựu nghinh tâu,
Rùng-rùng xóa bỏ Phật, Thần, Thánh, Tiên.
Làm cho Lão nửa phiền nửa tủi,
Ước sao mình như cuội trên trăng.
Đặng soi khắp cả dương-trần,
Cho người trong tối đặng lằng điển quang.
Kể đến lúc băng ngàn đất khách,
Đem thân nầy cắt mạch sầu đông.
Dầu ai trao đổi lạt nồng,
Trao chua chế ngọt tấm lòng chẳng nao.
Nhưng nghĩ lại héo xào tim phổi,
Biết gốc lành sao cội không gìn.
Ngạt-ngào tiếng kệ lời kinh,
Ơn nhờ chư Phật oai thinh giáo-truyền.
Thân làm Đạo ba giềng năm mối,
Dù gặp cơn gió thổi mưa tuôn.
Bại rồi thành lại nên tuồng.
Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma-ha.
Trải một lúc cuồng ba sóng dậy,
Chắc nhơn-sanh sẽ thấy việc chi?
Trời đà sắp-đặt ly-kỳ,
Tới ngày trả quả ầm ỳ biết bao.
Thỏa cho kẻ khát-khao đạo-đức,
Danh Thánh tài thơm rực non sông.
Theo đòi học cổ của ông,
Nguồn văn gọi người đồng tâm tu.
Lòng đừng chất mối thù chi cả,
Lũ bạo tàn tất tả nay mai.
Bấy lâu khoe giỏi khoe tài,
Trời xanh rọi thấu diệt loài kiêu căng.
Lời ta nói có ngằn lắm nhỉ,
Đễ đây rồi chúng quỉ hiểu lầm.
Điệu đờn trổi khúc huyền thâm,
Nhà nghề chọn bản tri âm đâu nào.
Giọng Tăng-Sĩ thanh thao như kiểng,
Hạn đã lâu sông giếng cạn mòn.
Cỏ cây khô héo thon-von,
Nay nhờ mưa đượm mà còn khát khao.
Nghĩ đến đây gió ào-ào thổi,
Ngẩng mình ra nhìn ngọn đông-phong.
Khổng-Minh nhờ gió dụng công,
Còn ta nhờ được muỗi-mòng bay tan.
Khuyên chớ chấp kẻ lòng lang sói,
Để đức lành ta rọi khắp nơi.
Non sông rực-rỡ chói ngời,
Mảnh gương Phật-đạo soi đời cổ kim.
Nhơn loại sẽ khỏi chìm bể khổ,
Khắp muôn loài nguyện độ siêu-thăng.
Kể chi miệng mối lưỡi lằn.
Mặc tình thế-sự kêu thằng hay ông.
Chớ chia rẽ phải đồng tâm lực,
Khua giọng vàng đánh thức bốn phương.
Chấn-hưng Phật-Giáo học-đường,
Dưới trên hòa-thuận chọn đường qui nguyên.
Tay Tăng-Sĩ gậy thiền quyết nằm,
Lần bụi bờ xuống thẳm lên đèo.
Dầu cho gặp lắm hùm beo,
Từ-bi vẫn niệm quyết leo khỏi rừng.
Đâu nản chí mà ngừng việc phải,
Cuộc tang thương biến cải cảnh trần.
Bực tang đeo đắm pháp-thân,
Chờ cơn gió tạnh sẽ lần bước ra.
Thấy thiện-tín chan hòa giọt lụy,
Tâm não nùng chạnh nghĩ xa vời.
Chim trời dựng ổ chiều mơi,
Bầy con chiu-chít cả đời nhàn thân.
Còn một đoạn mưa Tần nắng Sở,
Trải qua rồi việc dở hóa hay.
Thế-gian sẽ biết Thánh-tài,
Bế-bồng con dại hát bài khải-ca.
Ai mà được trông qua cảnh ấy,
Cội phúc nhà tạo lấy mà nhờ.
Thương đời tả ít lời thơ,
Nẻo tu dân-sự còn chờ dịp nao?
Phận Tăng-Sĩ nài hao gió bụi,
Miễn xổ lồng tháo củi ta-bà.
Theo đòi gương-phẩm Thích-Ca,
Dốc đem tâm chí tầm ra Đạo mầu.
Cả vạn vật chung bầu thế-giái,
Vì oán thù dựng bãi chiến-trường.
Cũng đồng xưng bá xưng vương,
Tranh quyền đoạt lợi đởm đương xé giành.
Ta nguyện một lời hành chánh đạo,
Chẳng phải người thông thạo hoàn toàn.
Nhưng mà gắng chí kêu vang,
Người ôi! thức tỉnh lánh nàn tu thân.
Nguồn bạch thủy trong ngần mát-mẻ,
Múc rưới vào độ kẻ chúng-sinh.
Thần-thông phép Phật muôn nghìn,
Cội lành nắm chặt ắt mình thảnh-thơ.
Nay Tăng-Sĩ có lời kêu gọi,
Dụng tinh-thần chống-chỏi quỉ tà.
Đừng cho chúng đến gần ta,
Nhơn-sanh còn hỡi ngà-ngà giấc say.
Phật, Tiên, Thánh muôn loài vạn-vật,
Cũng ở trong quả đất dựng gầy.
Siêu-thăng nhẹ tách đường mây.
Trầm-luân oan-nghiệt càng gây thêm hoài.
Ta chí dốc tầm đài-nguyệt-kiến,
Cho dương-trần rọi chuyện sai lầm.
Định thần dẹp hết tà tâm,
Huờn lai bổn-tánh Thần khâm quỉ nhường.
Bỏ cái tánh tự cường tự trọng,
Gẫm cuộc đời cái bóng theo hình.
Tu hành đâu kể nhục vinh,
Ta làm bổn-phận ngạo khinh mặc đời.
Đầu ngường-vọng đất trời minh chứng,
Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời.
Đôi đểu hòa-nhã nơi nơi,
Thân nầy mới chịu ngồi ngơi thạch-bàn.
Lòng trẻ thảo biết đoàn biết kết,
Phí xác phàm mê mệt đâu nài.
Băng rừng vẹt phá gốc gai,
Đưa người lương-thiện đến ngay Niết-Bàn.
Thấy biểu khổ đâu an lòng đặng,
Xông thuyền ra cứu vớt sanh-linh.
Miễn cho bá tánh vẹn mình,
Hết cơn bịnh tật hết tin đạo tà.
Cúi nhờ nước ma-ha mát mẻ,
Xin Phật ban cho kẻ khát lòng.
Chim khôn thì uống nước trong,
Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ.
Để ma bịnh theo hờ bén gót,
Thần chết kia ôm hót bên mình.
Đạo lành sao lại chẳng tin,
Dầu cho thông thái cũng gìn cốt xưa.
Nở đâu lại vày bừa đồng loại,
Cũng gốc Ngài Thượng-Đế xuống trần.
Quày đầu nghe tiếng chuông ngân,
Trở về nơi cũ cho gần Phật, Tiên.
Thấy sanh-chúng quá ghiền cảnh tục,
Nên nhiều lần giục thúc muôn dân.
Bạch trinh giữ lấy nghĩa-nhân,
Muốn về cõi Phật, lập thân cõi trần.
Vượt cảnh khổ muôn phần u-ám,
Ganh, ghét, hờn, thì thảm muôn bề.
Khuyên trong nam nữ chợ quê,
Cúi đầu thiện-niệm trông về Tây-Phương.
NGÂM:
Tu cho kẻ bạo khâm-nhường,
Đẹp lòng cha mẹ Cửu-Huyền chờ trông.
"ĐÊM NGỒI MỘT MÌNH"
(tiếp theo bài trước)
Riêng phòng vắng-vẻ một mình ta,
Đèn điện bật lên ánh sáng lòa.
Trí não nghĩ suy tuồng biến đổi,
Tâm hồn liệu lượng cảnh thay nhà.
Tai nghe bốn phía xe cùng ngựa,
Mắt thấy chung quanh vách trắng ngà.
Cô độc nhưng lòng nô-nức mãi,
Cố tình kinh-nghiệm những ngày qua.
Nhà thương Chợ-quán, ngày 30-9 Canh-Thìn.
MƯỜI BỐN THÁNG MƯỜI
Cảnh trời mây mịt vẽ lăng-quằng,
Mười bốn tháng mười lại khuất trăng.
Ngẫm việc thiên-cơ càng biến chuyển,
Xem chừng địa-lý quá xung xăng.
Tơ lòng vương-vấn đời thêm bận,
Tâm dạ ai-hoài cuộc nhện giăng.
Biết đó biết đây thời với vận,
Để ngày kết cuộc khó ăn-năn.
Nhà thương Chợ-quán, ngày 14-10 Canh-Thìn (trước khi Cộng-Sản nổi dậy ở Xoài-Hột).
"THAN ĐỜI"
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Chạnh lòng nghĩ lại cảnh phiền ba,
Nghi-ngút bợn nhơ khói vạy tà.
Lăn lác phong-trần dày dạn mặt,
Truân chuyên bể ái kiếp mày hoa.
Hố sâu chất chứa người bạc-ác,
Hang thẳm chôn chồng kẻ thiết tha.
Trời đã hoàng hôn mau chợt tỉnh,
Tìm đèn Trí-Huệ lánh thân ra.
Lánh thân ra khỏi kẻo mang tai,
Tầm nẻo cao siêu đến Phật-đài.
Bến giác Thần, Tiên mau chực sẵn,
Bể mê phàm tục phải cao bay.
Nợ duyên đeo-đắm nơi đời tạm,
Kiếp số luân-chìm chốn gốc gai.
Rày gặp mưa nhuần ân Thánh-đế,
Cam-lồ rưới tắt lửa trần-ai.
Nhà thương Chợ-quán, ngày 3-12 Canh-Thìn.
"TRAO LỜI CÙNG ÔNG TÁO"
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Đôi lời cạn hỏi Táo-quân ông,
Sắp tính về chầu Thượng-giới không?
Nếu có việc trần tâu thẳng lẽ,
Đừng như những kẻ bén hơi đồng,
Đêm ngồi nghĩ hỏi thăm ông Táo,
Sổ-sách trần ông tính đã xong chưa?
Năm Canh-Thìn nhiều trận gió mưa,
Chơ nhơn-loại trăm cay cùng ngàn đắng.
Còn một tháng trông coi dài dặn,
Chắc hăm-ba theo lệ cũng chầu Trời.
Đêm nay trò chuyện với tôi chơi,
Thêm dặn trước ít lời ông xin nhớ.
Táo cười rằng! có chi nhắn-nhờ?
Mới hôm nay sao lại gấp quá chừng?
Có điều chi lo liệu bâng khuâng,
Mà vội-vã dặn-dò tôi sớm vậy?
Sãi cả cười, vuốt-ve tấm đãy:
Sợ ngày về ông bận lắm chè xôi.
Của chúng-sanh làm lễ vãng hồi,
E quên mất những lời tôi gởi-gấm.
Nên tính trước trao tờ cáo-thẩm,
Cuộc trần-gian đà trải một năm qua,
Luôn từ ngày Tăng-Sĩ xa nhà,
Đều uất-kết tâu qua cùng Thượng-Đế:
Ngày vâng chỉ đáo-lai trần-thế,
Cõi Trung-Ương nhằm đất nước Việt-Nam.
Chọn một chàng tuổi trẻ tục-phàm,
Mượn tay gã.tờ hoa Thần hạ bút.
Khuyên bá-tánh tầm Tiên rời tục,
Chỉ máy Trời bày tỏ việc về sau.
Gái cùng trai già trẻ bước vào,
Đường trí-huệ qui-y gìn Đạo-pháp.
Thần cũng chẳng say mê chùa tháp,
Chẳng tham tiền, tham vật, món chi chi.
Hơn năm dư quyết chí duy trì,
Truyền sanh-chúng phải kính thờ Trời, Phật.
Cũng lắm kẻ phàm phu sơ thất,
Vội trêu đùa lũ quỉ ngạo đoàn ma.
Lúc ăn-năn sửa tánh rất thật-thà,
Còn lắm kẻ nghinh-ngang theo chọc rối.
Mượn luật-pháp ẩn trong bóng tối,
Mãi làm đều phi nghĩa chuyện bất lương.
Dạ hiểm sâu không thước đo lường,
Dốc phá hoại đường ngay, bôi lẽ thẳng.
Thêm lời tiếng thấp cao nhẹ nặng,
Làm cho người tu tỉnh phải xót-xa;
Nên hạ thần kính-cẩn tâu qua,
Xin Ngọc-Đế phân minh giùm trần-thế.
Nay cũng lắm người ưa kinh-kệ,
Muốn tu mà gặp lúc quá gay-go.
Xác trần còn mắc phải neo đò.
Giờ rước khách đã ngưng rồi năm tháng.
Thiên-số định cũng chưa quá hạn,
Nên phải còn bận mãi ách nàn tai.
Vọng Thánh-minh đức rạng khắp nhơn-loài,
Ban phước xuống dân lành cho bớt khổ.
Gạo lúa kém là đồ sản-thổ,
Hàng hóa cao, ấy của ngoại bang vào.
Kẻ nghèo hèn thêm nỗi đói, đau,
Rất mong-mỏi an-cư cùng lạc nghiệp.
Oai trời đất, thế-trần khủng-khiếp,
Nhưng ngặt loài thỏ-cáo cứ đua tranh.
Lũ sói hùm hươi gút múa nanh,
Cho trăm họ hãi-hùng cơn sấm nổ.
Thần rán sức ra công khuyến dỗ,
Gìn thuần-phong mỹ-tục của Rồng-Tiên.
Tập ờ ăn theo nết Thánh-hiền,
Lòng tu tỉnh, dòm Phật-Tiên nối chí.
Bày tường-tận trước sau chung thỉ,
Đời văn-minh vật-chất bỏ gương xưa.
Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa,
Học thói mới lăng loàn theo sở dục.
Khắp thế-giới binh lương cụ túc,
Quyết tranh-giành quyền-lợi, xé-xâu nhau.
Thấy nhơn-sanh tuôn giọt máu đào,
Lòng bác-ái động tình rơi nước mắt.
Tiếng ai-bi thở than véo-vắt,
Khắp Đông, Tây, Nam, Bắc chịu ưu sầu.
Kẻ lương-hiền chờ giọt mưa ngâu,
Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi.
Ở thị thiềng đua chen xướng-khởi,
Nhưng tuồng hư, cho bọn gái lẫn trai.
Nào hút thuốc phiện, hội ve chai,
Nào trùm-đĩ, ma-cô, nghề hút máu.
Ai để mắt xem đời chu đáo,
Chẳng khỏi than giùm dân-tộc hư hèn.
Diện áo quần, son phấn lấn chen,
Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa.
Mãng điểm-tô huy-hoàng nhà cửa,
Ai khốn-cùng để mặc đất, trời xây.
Thấy nhơn gian khuynh đảo tỏ bày,
Cho Thương-Đế lãm tuồng trong sanh-chúng.
Bấy nhiều đều xét xem nhân-chủng,
Táo đệ giùm cho thấu đến Thiên-cung.
Còn nhiều đều gớm-ghiếc hãi-hùng,
Lấy yếu lược dôi câu mà trần tố.
Nay cùng ông hữu duyên tương ngộ,
Chúc ông về Thượng-giái được ban khen.
Phần Sĩ-Tăng tay trống miệng kèn,
Giác thiện-tín chấn-hưng nền Phật-giáo.
Nếu chừng nào khai thông đại Đạo,
Đuốc từ-bi rọi khắp cả nhơn-gian.
Bể trầm-luân khô cạn sáu đàng,
Tăng-Sĩ mới trở về nơi thanh-tịnh.
Nhà thương Chợ-quán, ngày 3 tháng chạp Canh-Thìn.