Lục Vân Tiên (蓼雲仙) là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19 và được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam Việt Nam. Tác phẩm được dịch giả Abel des Michels chuyển ngữ sang tiếng Pháp với tên gọi Lục Vân Tiên cổ tích truyện - Histoire de Luc Van Tien năm 1899.
Truyện Lục Vân Tiên (mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên) là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa.
Truyện Lục Vân Tiên được viết bằng thể lục bát, vì được in nhiều lần nên có nhiều văn bản khác nhau, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, truyện có 2082 câu thơ lục bát, kết cấu theo lối chương hồi.
Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga,
Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần.
Thấy nàng thờ bức tượng nhân,
Nghiệm trong tình ý dần lân hỏi liền:(261)
"Tượng này sao giống Vân Tiên.
Bấy lâu thờ có linh thiêng điều gì?"
Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi,
Một câu chánh tiết phải ghi vào lòng. (262)
Trăm năm cho vẹn đạo tòng,
Sống sao thác vậy một chồng mà thôi".
Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi,
Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa.
Làm người trong cõi gió mưa,
Bảy mươi, mất mặt người xưa thấy nào?
Chúa xuân còn ở vườn đào,
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần!
Chúa đông ra khỏi vườn xuân,
Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang!
Ở đời ai cậy giàu sang,
Ba xuân mòn hết, ngàn vàng khôn mua. (263)
Hay chi như vãi ở chùa,
Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh?
Linh đinh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước biết mình vào đâu?
Ai từng mặc áo không bâu, (264)
Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau?
Nàng sao chẳng nghĩ trước sau,
Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình".
Nàng rằng: "Xưa học sử kinh,
Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.
Chẳng phen thói nước Trịnh đâu, (265)
Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình".
Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh,
Sao không soi xét, để mình ngồi không?
Hồ Dương xưa mới goá chồng,
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa. (266)
Hạ Cơ lớn nhỏ đều ưa,
Sớm đưa Doãn, Phủ tối ngừa Trần Quân. (267)
Hớn xưa Lữ Hậu thanh xuân,
Còn vừa Cao Tổ mới đành Dị Ki. (268)
Đường xưa Võ Hậu thiệt gì,
Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già. (269)
Cứ trong sách vở nói ra,
Một đời sung sướng cũng qua một đời!
Ai ai cũng ở trong trời
Chính chuyên, chắc nết, chết thời cũng ma. (270)
Người ta chẳng lấy người ta,
Người ta đâu lấy những là tượng nhân?
Cho nên tiếc phận hồng nhan,
Học đời Như ý vẽ chàng Văn Quân". (271)
Nguyệt Nga biết đức tiểu nhân,
Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi.
Bùi ông ngon ngọt trau dồi,
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình:
"Làm người chấp nhứt sao đành, (272)
Hễ là lịch sự có kinh có quyền. (273)
Tới đây duyên đã bén duyên,
Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai?
Nhớ câu xuân bất tái lai,
Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn.
Làm chi thiệt phận hồng nhan,
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng?
Vọng Phu xưa cũng trông chồng,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phui pha.
Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi". (274)
Nguyệt Nga giả dạng mừng vui,
Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy.
Tôi xin dám gởi lòng này,
Hãy tua chậm chậm sẽ vầy nhơn duyên. (275)
Tôi xin lạy tạ Vân Tiên,
Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung".
Cha con thấy nói mừng lòng,
Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê.
Chiếu hoa gối sạch bộn bề,
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra. (276)
Xảy vừa tới lúc canh ba,
Nguyệt Nga lấy bút đề và câu thơ.
Dán trên vách phấn một tờ,
Vai mang bức tượng một giờ ra đi.
Hai bên bờ bụi rậm rì,
Đêm khuay vắng vẻ gặp khi trăng lờ.
Lạ chừng đường sá bơ vơ,
Có bầy đom đóm sáng nhờ đi theo.
Qua truông rồi lại lên đèo,
Dế kêu dắng dỏi sương gieo lạnh lùng.
Giày sành, đạp sỏi thẳng xông, (277)
Vừa may trời đã vừng đông lố đầu.
Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,
Tìm nơi bàn thạch ngõ hầu nghỉ chân.
Người ngay trời phật cũng vâng,
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,
Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta. (278)
Khi khuya nằm thấy Phật bà,
Người đà mách bảo nên già tới đây".
Nguyệt Nga bán tín bán nghi,
Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà.
Bước vào thấy những đàn bà,
Làm nghề bô vải lụa là mà thôi.
Nguyệt Nga đành dạ ở rồi,
Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào.
Hỏi thăm ra chốn Ô Sào,
Quan san mấy dặm đi vào tới nơi. (279)
Đoạn này tới thứ ra đời, (280)
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kẽ từ nhuốm bệnh đường xa,
Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
Tiên rằng: "Ta lại hồi hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,
Đã đành hai chữ quy y chùa này". (281)
Tiên rằng: "Phước gặp khoa này,
Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
Mấy năm hẩm hút tương rau, (282)
Khó nghèo nỡ phụ sang giàu đâu quên.
Lúc hư còn có lúc nên,
Khuyên người chử dạ cho bền thảo ngay".
Hớn Minh trở lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục ông nước mắt tuôn rơi,
Ai dè con sống trên đời thấy cha !
Xóm giềng cô bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: "Kể đã mấy năm,
Con mang bệnh tật ăn nằm nơi nao ?"
Thưa rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an ".
Đặt bày lễ vật nghiêm trang,
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh: (283)
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bền nguồn nước cội cây, (284)
Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng. (285)
Suy trang nằm giá, khóc măng, (286)
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa". (287)
Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có nàng Nguyệt Nga,
Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề, (288)
Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi".
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi,
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu,
Đặng con đến đó đáp câu ân tình".
Lục ông thuật việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên:
"Kiều công rày ở Tây Xuyên,
Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra". (289)
Tiên rằng: "Cám nghĩa Nguyệt Nga
Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng.
Tây Xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền:
"Nguyệt Nga rày ở nước Phiên,
Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng ?
Mấy thu Hồ Việt đôi phang, (290)
Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.
Thấy chàng dạ lại thêm đau,
Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành. (291)
Hẹp hòi đặng chút nữ sanh.
Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn". (292)
Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn:
"Cũng vì một sự oán hờn nên gây.
Thôi con ở lại bên này,
Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già".
Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kì,
Năm sau lệnh mở khoa thi,
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân đường,
Kinh sư ngàn dặm một đường thẳng ra. (293)
Vân Tiên dự trúng khôi khoa, (294)
Đương trong nhâm tí thiệt là năm nay.
Nhớ lời thầy nói thật hay,
Bắc phương gặp chuột hẳn rày nên danh.
Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô Qua,
Phủ vây quan ải, quân ba bốn ngàn.
Sở vương phán trước ngai vàng:
Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong. (295)
Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
"Xin dâng một tướng anh hùng đề binh. (296)
Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
Ngày xưa mắc án trốn đi,
Phải về nương náu từ bi ẩn mình".
Sở vương phán trước triều đình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phó tướng bình di, (297)
Tiên Minh tương hội xiết gì mừng vui. (298)
Nhất thanh phấn phát oai lôi, (299)
Tiên phong hậu tập trống hồi tấn binh. (300)
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô Qua. (301)
Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha, ngay chúa, mới là tài danh.
Phút đầu binh đáo quan thành, (302)
Ô Qua xem thấy, xuất hành cự đang. (303)
Tướng Phiên hai gã đường đường,
Một chàng Hoả Hổ một chàng Thần Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh cùng Hoả Hổ Thần Long một hồi.
Hớn Minh chùy giáng dường lôi, (304)
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,
Thấy chàng hoá phép thoát mình trở lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô. (305)
Một mình lướt trận xông vô,
Thấy người Cốt Đột biển hô yêu tà.
Vội vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan.
Phép tà Cốt Đột hết phương,
Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên.
Trung, tiền, tả, hữu, lưỡng biên,
Trạng nguyên - Cốt Đột đánh liên tối ngày.
Sa cơ Cốt Đột chạy ngay,
Vân Tiên giục ngựa kíp rày đuổi theo.
Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao. (306)
Chạy ngang qua núi Ô Sào,
Phút đâu con ngựa sao hào thương ôi.
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đường núi phút đà tam canh. (307)
Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ trình trở ra.
Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya trong ngọn đèn ngồi,
Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi:
"Quân âm thuở trước nói chi,
Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.
Không trông mồng bảy đêm thu,
Không trông bầy quạ đội cầu đưa sao. (308)
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau ?"
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho cùng".
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão bà lật đật hỏi chào:
"Ở đâu mà tới rừng cao một mình ?"
Vân Tiên mới nói sự tình:
"Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô Qua,
Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây".
Lão bà nghe nói sợ thay:
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già ".
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tánh danh cho tường ".
Lão bà chẳng dám lời gian:
"Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
Tiên rằng: "Nàng xách lại đây,
Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè,
Mặt thời giống mặt, còn e lạ người.
Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
Rằng: "Sao nàng chẳng nói đi,
Hay là ta hỏi động chi chăng là ?"
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
"Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đàng về chốn cửu tuyền,
Thiếp lăm trọn đạo, lánh miền gió trăng".
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn:
"Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi ?"
Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng: "May gặp nhau đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
Để lời thệ hải minh sơn, (309)
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ".
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ, (310)
Nửa tin rằng bạn, nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng: "Đã thiệt tên ngài,
Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua". (311)
Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc oà như mưa.
Ân tình càng kể càng ưa,
Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xa nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
Minh rằng: "Tẩu tẩu ở đâu, (312)
Cho em ra mắt chị dâu thế nào".
Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
Quyết đem binh mã sang miền Ô Qua.
May đâu sum hiệp một nhà,
Giặc đà an giặc khải ca hồi trào".
Tiên rằng: "Nàng tính thế nào ?"
Nàng rằng: "Anh hãy về trào tâu lên.
Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
Lịnh tha tội trước mới nên về nhà ".
Trạng nguyên từ giã lão bà,
Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày:
"Tôi về đem bức tượng này,
Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà".
Tiên, Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại triều ca đề huề. (313)
Sở vương nghe trạng nguyên về,
Sai quan tiếp rước vào kề bên ngai.
Sở vương bước xuống kim ngai,
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
Nay đà trừ Cốt Đột xong,
Thiệt trời sanh trạng giúp trong nước nhà.
Phải chi trước có trạng ra,
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ ".
Lệnh truyền mở yến triều đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô Qua rồi.
Trạng nguyên quì tấu một hồi,
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng.
Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu ".
Thái sư trước bệ quì tâu:
"Ô Qua dấy động qua mâu cũng vì, (314)
Trá hôn oán ấy nên gây,
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân"
Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng:
"Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa.
Thái sư trước chẳng lo lừa,
Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng ?
Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng.
Không soi chậu úp cũng mang tiếng đời. (315)
Ngay gian sao cũng có trời,
Việc này vì trẫm nghe lời nên oan ".
Trạng nguyên tâu trước triều đàng:
"Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
Trịnh Hâm là đứa gian tà,
Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen ". (316)
Sở vương phán trước bệ tiền:
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi. (317)
Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng. (318)
Hớn xưa có gã Đổng công, (319)
Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng họ Lưu.
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư nay có khác nào người xưa ?
Thấy người trung chánh chẳng ưa,
Rắp tâm kế độc lập lừa mưu sâu.
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
Ấy là mới hết người sau gian tà ".
Sở vương phán trước triều ca:
"Thái sư cách chức về nhà làm dân.
Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,
Trẫm cho phục chức làm quan Đông Thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã bình,
Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà ".
Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạng nguyên mới hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao ?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh.
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh,
Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
Kéo ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan ".
Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi
Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dẫu cho có sống, làm gì nên thân ?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng cố nhân,
Vốn em mới dại một lần xin dung ".
Trạng rằng: "Hễ đứng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi ".
Trịnh Hâm khỏi giết rất vui,
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
Còn người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.
Hớn Minh - Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc trạng kíp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành.
Võng điều gươm bạc lọng xanh,
Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng,
Trịnh Hâm về tới Hàn Giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng, (320)
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
Của đi khuyên giáo mấy năm.
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
Còn đương thơ thẩn vào ra Đại Đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng:
"Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
Thoả tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay".
Đọc văn nhớ tới chau mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
Người ngay trời phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền. (321)
Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng:
"Ông này sao giống Vân Tiên cũng kì ?
Ông nào mất xuống âm ti,
Ông nào còn sống nay thì làm quan ?"
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
"Phải người đồng tử mắc màn chốn ni ?"
Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn (322)
Ai dè còn thấy bổn quan, (323)
Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi .
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum họp tại nơi Đại Đề.
Đoạn thôi xe giá ra về,
Tuần dư phút đã gần kề Hàn Giang. (324)
Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
Mẹ con những mảng lo âu ;
"Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân tình,
Phải ra đón rước lộ trình hoạ may".
Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang".
Trang rằng: "Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa.
Dầu chàng còn nhớ tích xưa,
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công".
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên . (325)
Nay đà tới thứ trạng nguyên,
Hàn Giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng châu báu áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều.
Ngư tiều nay đặng danh biêu, (326)
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
Trang rằng: "Tưởng chữ hôn nhân,
Mẹ con tôi đến lễ mừng trạng nguyên.
Võ công đã xuống huỳnh tuyền,
Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này".
Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy,
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong ?
Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi". (327)
Hớn Minh Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi ?
Ca ca sao chẳng chịu đi, (328)
Về cho tẩu tẩu, để khi xách giày ?"
Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
Vội vàng cúi lạy, chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp nhảy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương Tòng.
Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc không trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết nghĩa sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Chớ đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.
Trạng nguyên về tới Đông Thành,
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
Bày ra sáu lễ sẵn sàng, (329)
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời. (330)
Chú thích:
261. Dần lân: lân la dần dần.
262. Chánh tiết: trinh tiết, ngay thẳng.
263. Ba xuân: ba tháng xuân, tuổi xuân.
264. Bâu: cổ áo.
265. Chẳng phen: chẳng bắt chước. Thói nước Trịnh: thói tà dâm như trai gái nước Trịnh trèo tường đón ngõ rủ rê nhau ra nơi đồng nội để thoả lòng dục.
266. Công chúa Hồ Dương chồng chết, phải lòng Tống Hoằng.
267. Hạ Cơ: Con gái Trịnh Mục Công, xinh đẹp, lẳng lơ, có chồng mà vẫn một lúc ngoại tình với nhiều người.
268. Lữ Hậu: vợ Hán Cao Tổ mất, Lữ Hậu tư thông với Dị Ki (Thẩm Tự Cơ) cho Tự Cơ làm tả thừa tướng để tiện bề chung chạ.
269. Võ Hậu thông tình với hai anh em Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi. (Tức Di Tôn, Tam Tư).
270. Chính chuyên: một bề tiết hạnh. Trắc nết: mất nết.
271. Nàng Như ý sau khi cứu Văn Quân thoát nạn, đem lòng yêu chàng, vẽ hình chàng. Sau hai người lấy nhau (tuồng cổ).
272. Chấp nhứt: câu nệ về một lẽ.
273. Hễ là người trải đời thì phải biết cả chấp kinh (tuân thủ nguyên tắc) lẫn tòng quyền (vượt ngoài nguyên tắc).
274. Vầy: sum họp.
275. Tua: nên phải.
276. Bát bửu: tám vật quý là gươm, giáo, búa... bằng đồng hay bạc để bày cho thêm sang trọng.
277. Giầy xéo lên sành, đạp lên sỏi.
278. Khá tua: phải nên.
279. Nguyệt Nga đã trôi giạt tới chốn cửa ải và núi non, xa xôi cách trở.
280. Ra đời: ra hoạt động, giúp đời.
281. Quy y: đi tu, thụ lễ theo Phật giáo.
282. Hẩm hút tương rau: cảnh nghèo nàn.
283. Minh sinh: mảnh lụa, vải hay giấy dài ghi tên họ, chức tước người chết để cúng.
284. Người ta có tổ tiên cha mẹ như nước có nguồn cây có gốc.
285. Chín trăng: chín tháng (mẹ mang thai con chín tháng).
286. Nằm giá: Nằm trên băng giá. Sổ Liêu xưa nằm trên băng để băng tan, bắt được cá chép về cho mẹ ăn chữa bệnh. Khóc măng: Mạnh Tông thương mẹ vốn thích ăn măng. Mùa đông ông vào rừng kiếm măng không được, ôm trúc mà khóc, tự nhiên măng mọc.
287. Nhị thập tứ hiếu: 24 gương hiếu xưa.
288. Ra bề: ra bề thế.
289. Biếm quyền: giáng chức quan.
290. Hồ phương Bắc, Việt phương Nam.
291. Chia Bâu: chia li.
292. Kiều công mong cho Nguyệt Nga sẽ thành gia thất và sinh được con hay.
293. Kinh sư: kinh đô.
294. Khôi khoa: đỗ đầu (trạng nguyên).
295. Chỉ: lệnh vua. Quốc trạng: trạng nguyên của cả nước. Dẹp loàn: dẹp loạn.
296. Đề binh: đem binh đi đánh giặc.
297. Binh di: dẹp giặc.
298. Tương hội: cùng hội họp với nhau.
299. Một tiếng truyền lệnh, oai hùng như sấm làm phấn khởi mọi người.
300. Tiên phong: quân xông trận mặt trước. Hậu tập: quân đánh bọc mặt sau.
301. Bình tặc: dẹp yên giặc.
302. Binh đáo quan thành: quân đến trước cửa thành.
303. Ra quân, chống trả.
304. Dường lôi: như sấm sét đánh.
305. Siêu: binh khí có lưỡi dài. Ngựa ô: ngựa lông đen.
306. Không quản hiểm nghèo.
307. Tam canh: canh ba
308. Nguyệt Nga không mong gặp được Vân Tiên như Chức nữ gặp Ngưu lang.
309. Thề bể hẹn non, bền chặt.
310. Bảng lảng bơ lơ: kinh ngạc ngẩn người.
311. Khúc nôi: nỗi niềm, sự tình.
312. Tẩu tẩu: chị dâu.
313. Triều ca: buổi thiết triều. Đề huề: dắt tay nhau cùng đi.
314. Qua mâu: binh khí thời xưa.
315. Chậu úp: nói nơi tối tăm, ánh sáng không lọt tới, trong ngoài không thông nhau, ví nỗi oan không cách giải tỏ.
316. Ghe phen: nhiều phen.
317. Tướng ngỏ tôi hiền: khanh tướng và kẻ bề tôi hiền.
318. Chín trùng: vua, Người cai trị một nước
319. Đổng công: tức Đổng Trác.
320. Ý nói thản nhiên như không.
321. Bài vị: miếng gỗ hay mảnh giấy cứng, mặt có ghi tên người chết để thờ.
322. Các thứ lớp từ trước đến nay.
323. Chỉ Vân Tiên.
324. Tuần dư: hơn mười ngày.
325. Phần cho là trời định dành cho mỗi người, về khả năng có quan hệ tình cảm (thường là quan hệ nam nữ, vợ chồng) hoà hợp, gắn bó nào đó trong cuộc đời.
326. Biêu: nêu lên cho mọi người biết.
327. Ý câu: Vân tiên bị xem là kẻ oán thù với nhà Thể Loan, thì Vân Tiên đã bị nhà Thể Loan hãm hại, tức Vân Tiên trả xong nợ rồi.
328. Ca ca: anh, người con trai do mẹ mình đẻ trước mình. Chịu đi: đồng ý, ưng thuận đi.
329. Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới hỏi thời xưa (lễ nạp thái, lễ vấn danh, lễ nạp cát, lễ nạp tệ, lễ thỉnh kỳ, lễ thân nghinh.
330. Gót lân: chỉ con cháu có tài có đức.