Lục Vân Tiên (蓼雲仙) là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19 và được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam Việt Nam. Tác phẩm được dịch giả Abel des Michels chuyển ngữ sang tiếng Pháp với tên gọi Lục Vân Tiên cổ tích truyện - Histoire de Luc Van Tien năm 1899.
Truyện Lục Vân Tiên (mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên) là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa.
Truyện Lục Vân Tiên được viết bằng thể lục bát, vì được in nhiều lần nên có nhiều văn bản khác nhau, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ. Theo văn bản thường dùng hiện nay, truyện có 2082 câu thơ lục bát, kết cấu theo lối chương hồi.
Trước đèn xem truyện Tây minh, (1)
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành. (2)
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao. (3)
Văn đà khởi phung đằng giao, (4)
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
Xảy nghe mở hội khoa thi,
Vân tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
Nay đà gặp hội long vân,
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây, (5)
Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa. (6)
Làm trai trong cõi người ta,
Trước là báo bổ sau là hiển vang". (7)
Tôn sư khi ấy luận bàn:
"Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
Máy trời chẳng dám nói ra, (8)
Xui thầy thương tới xót xa trong lòng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong.
Phải toan một phép để phòng hộ thân.
Rày con xuống chốn phong trần,
Thầy cho hai đạo phù thần đem theo. (9)
Chẳng may mà gặp lúc nghèo, (10)
Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an".
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn trong lòng sinh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi,
Tôn sư người dạy khoa kì còn xa?
Hay là bối rối việc nhà,
Hay là đức bạc hay là tài sơ?
Bấy lâu lòng những ước mơ
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao?
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an".
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng: "Vạn lý trường đồ,
Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kì ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sanh chưa biết nắng mưa buổi nào.
Song đường tuổi hạc đã cao, (11)
Xin thầy nói lại âm hao con tường". (12)
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng.
Nhân cơ tàng sự dặn rằng: (13)
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy.
Sau con cũng rõ lẽ này,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi.
Số con hai chữ khoa kì,
Khôi tinh đã rạng tử vi thêm loà. (14)
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan. (15)
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuột ra đàng con mới nên danh.
Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai. (16)
Trong cơ bĩ cực thới lai,
Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn".
Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn mọi lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi nhớ lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: "Thiên các nhứt phương. (17)
Thầy đeo đoản thảm tơ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan Uyên. (18)
Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay". (19)
Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia,
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân.
Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non?
Tiên rằng: "Bớ chú cõng con,
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"
Dân rằng: "Tiểu tử là ai,
Hay là một đảng sơn đài theo tao?" (20)
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời".
Dân nghe tiếng nói khoan thai,
Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua:
"Nhơn rày có đảng lâu la,
Tên rằng Đỗ Dự hiệu là Phong Lai.
Nhóm nhau ở chốn sơn đài,
Người đều sợ nó có tài khôn đương.
Bây giờ xuống cướp thôn hương.
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám nói chi,
Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn.
Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng. (21)
E khi mắc đảng hành hung,
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu. (22)
Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình". (23)
Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao?
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này".
Dân rằng: "Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành. (24)
E khi hoạ hổ bất thành(25)
Khi không mình lại xô mình xuống hang". (26)
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng: "Bớ lũ hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
"Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây?
Trước gây việc dữ tại mầy.
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng".
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương. (27)
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: "Ai than thóc ở trong xe này?"
Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,
Sa cơ nên mới làm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng".
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thơ con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?
Chẳng hay tên họ là chi,
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ này, (28)
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra".
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì thiếp tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thơ về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành.
Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Chút tôi yếu liễu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có bạc vàng thì không.
Gẫm câu báo đức thù công, (29)
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
Vân Tiên nghe nói liền cười:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. (30)
Đó mà biết chữ thỉ chung,
Lựa là đây phải theo cùng làm chi".
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?"
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha:
"Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên".
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin".
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na: (31)
"Vậy chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ, (32)
Lòng chê cũng phải lòng ngơ sao đành".
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây. (33)
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của này rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng ngãi khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì".
Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.
Ai dè những đứng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm".
Riêng than: "Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ao cầm mà mơ?
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ".
Vân Tiên ngó lại rằng: "ừ,
Làm thơ cho kịp bấy chừ chẳng lâu".
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu văn vần:
"Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào?"
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào, (34)
Ai dè sức gái tài cao bực này.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi. (35)
Thơ ngâm dũ xuất dũ kì, (36)
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân Tiên hoạ lại một bài trao ra.
Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hoà vận điểu, điểu hoà vận mai (37)
Có câu xúc cảnh hứng hoài, (38)
Đường xa vòi vọi dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi.
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình.
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương.
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyệt cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an. (39)
Hữu tình chi bấy Ngưu lang, (40)
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê".
Trải qua dấu thỏ đường dê, (41)
Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
Vái trời cho đặng vuông tròn,
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.
Phút đâu đã tới phủ đàng,
Kiều công xem thấy lòng càng sinh nghi.
Hỏi rằng: "Nào kẻ tuỳ nhi, (42)
Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình, (43)
Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hãy bùi ngùi,
Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn: (44)
"Lao đao phận trẻ chi sờn,
No nao trả đặng công ơn cho chàng". (45)
Kiều công nghe nói liền can,
Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng.
Khi nào cha rảnh việc quan,
Cho quân đến đó mời chàng đến đây.
Sao sao chẳng kịp thời chày, (46)
Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi.
Hậu đường con hãy tạm lui,
Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già".
Tây lầu trống điểm sang ba,
Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình.
Dời chân ra chốn hoa đình, (47)
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn.
Than rằng: "Lưu thuỷ cao sơn,
Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri âm.
Chữ tình càng tưởng càng thâm, (48)
Muốn pha khó lợt muốn dầm khôn phai.
Vơi vơi đất rộng trời dài,
Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền".
Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Hoạ ra một bức tượng hình Vân Tiên.
Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên, (49)
Chữ ân để dạ chữ duyên nhuốm sầu".
Truyện nàng sau hãy còn lâu,
Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra. (50)
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,
Giữa đường lại gặp người ra kinh kì.
Xa xem mặt mũi đen xì,
Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
Nhớ câu bình thuỷ tương phùng, (51)
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi:
"Chẳng hay danh tánh là chi,
Một mình mang gói ra đi việc gì".
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
Hớn Minh tánh tự, Ô Mi quê nhà
Vân Tiên biết lẽ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao, (52)
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây.
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
Kìa nơi võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chưn một hồi".
Cùng nhau bày họ tên rồi,
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.
Hớn Minh đi trước tựu trường,
Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.
Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim.
Dám xin cha mẹ an tâm,
Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi" (53)
Mẹ cha thấy nói thêm vui,
Lại lo non nước xa xôi nghàn trùng.
Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:
"Xưa đà định chữ lương duyên,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang,
Con người là Võ Thể Loan.
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà. (54)
Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia, (55)
Con đi qua đó trao qua thơ này.
Con dầu bước đặng thang mây,
Dưới chưn đã sẵn một dây tơ hồng".
Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân.
a đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân sang hè.
Lại xem dặm liễu đường hoè,
Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,
Trên nhành chim hót dưới ao cá cười.
Quận thành nhắm cảnh coi người,
Cảnh xinh như vẽ người tươi như dồi. (56)
Hàn Giang phút đã tới nơi,
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thơ.
Võ công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền. (57)
Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen học Lục phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
Những e kẻ Tấn người Tần, (58)
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai. (59)
Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Này dâu nam giản nọ trai đông sàng (60)
Công rằng: "Ngãi tế mới sang, (61)
Muốn lo việc nước phải toan việc nhà".
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
Đại khoa dầu đặng tiểu khoa lo gì". (62)
Công rằng: "Con dốc xuống thi,
Sao không kết bạn mà đi tựu trường?
Gần đây có một họ Vương,
Tên là Trử Trực văn chương tót đời. (63)
Cha đà sai trẻ qua mời,
Rằng con cùng gã thử chơi một bài.
Thấp cao cao thấp biết tài,
Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu". (64)
Xảy đâu Trử Trực tới hầu,
Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con,
Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền.
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu bình thuỷ hữu duyên làm đề". (65)
Song song hai gã giao kề, (66)
Lục Vương hai họ đua nghề một khi
Cho hay kì lại gặp kì, (67)
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành. (68)
Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu.
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
Thiệt trang lương đống đã đành, (69)
Khá khen hai họ tài lành hoà hai".
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc sánh vai một bầy? (70)
Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực này xin nhượng Tiên này làm anh.
Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau". (71)
Phút xem trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
Võ công trở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chưn trời,
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình. (72)
Gọi là chút nghĩa tống tình. (73)
Phòng sao cho khỏi bất bình cùng nhau".
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu,
Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở bình minh,
Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung. (74)
Thưa rằng: "Quân tử phó công, (75)
Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.
Tấm lòng thương gió nhớ mưa, (76)
Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời.
Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng. (77)
Quản bao chút phận má hồng.
Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.
Chàng dầu cung quế xuyên dương, (78)
Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng. (79)
Xin đừng tham đó bỏ đăng, (80)
Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".
Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.
May duyên rủi nợ dễ phô, (81)
Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần" (82)
Thể Loan vội vã lui chân,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Tràng An.
Xa xa vừa mấy dặm đàng,
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn cùng đi. (83)
Trải qua thuỷ tú sơn kì, (84)
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay. (85)
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài, (86)
Năm ba chén rượu một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua. (87)
Cùng nhau bàn bạc gần xa
Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau.
Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây". (88)
Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau" (89)
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi. (90)
Chênh vênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
Phút đâu gặp bạn cố tri,
Đều bày tên họ một khi mới tường.
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi. (91)
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
Làm thơ mới biết bậc nào tài năng:".
Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề". (92)
Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kìa là thuốc lá ướp ngâu, (93)
Trà ve điểm tuyết, rượu bầu cúc hương. (94)
Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng".
Bĩ bàng trà rượu đã xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.
Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.
Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi. (96)
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ, (97)
Cười người Tôn Tẫn không lừa,
Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên". (98)
Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?" (99)
Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" (100)
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào, (101)
Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, (102)
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U Lệ đa đoan, (103)
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời ngũ bá phân vân, (104)
Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng, (105)
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông. (106)
Thương thầy Nhan Tử dở dang. (107)
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hớn mạt đã đành phui pha. (108)
Thương thầy Đồng tử cao xa, (109)
Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, (110)
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may, (111)
Sớm dưng lời biểu ối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra, (112)
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương".
Trực rằng: "Chùa rách Phật vàng, (113)
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân. (114)
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Quán rằng: "Nghiêu Thuấn thuở xưa, (115)
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do. (116)
Di Tề chẳng khứng giúp châu, (117)
Một mình một núi ai hầu chi ai.
Ông Y ông Phó ôm tài, (118)
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.
Thái Công xưa một cần câu, (119)
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi, (120)
Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu. (121)
Trần Đoàn chẳng chút lo âu, (122)
Gió trăng một túi công hầu chiêm bao, (123)
Chú thích:
1. Bài văn tự răn nổi tiếng bàn về đạo hiếu và đạo nhân, do Trương Tái làm.
2. Hai tám: hai cái tám tức mười sáu tuổi.
3. Sân Trình: Chỉ Trình Chiêu và Trình Di, hai nhà Tống nho nổi tiếng.
4. Văn đã như phượng trỗi dậy, rồng bay cao, tức văn đã thành tài.
5. Ý nói quyết chí phải thi đỗ.
6. Danh tôi: danh của kẻ tôi tớ (Vân Tiên nói nhún)
7. Báo đáp công ơn cha mẹ và thầy.
8. Máy trời: thiên cơ (cơ trời huyền bí)
9. Phù thần: bùa hộ mệnh
10. Hiểm nghèo, lúc nguy nang.
11. Song đường: xuân đường, huyên đường (cha mẹ). Tuổi hạc: tuổi thọ.
12. Âm hao: tin tức
13. Nhân cơ trời đang chứa nhiều bí ẩn (do xem trăng sao mà biết)
14. Sao Thiên Khôi (sao văn học, thi cử) và sao Tử vi (thân mệnh) đều sáng rỡ
15. Nhưng gặp năm xung nên chưa thuận (mão xung dậu)
16. Tiền trình: con đường phía trước.
17. Mỗi người một phương trời.
18. Tử Lộ, Nhan Uyên: hai học trò giỏi của Khổng Tử, thuở nhỏ rất nghèo, Tử Lộ chỉ có một dây đai, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước.
19. Tôi ngay: bề tôi trung thành của vua.
20. Đảng sơn đài: Đảng cướp núi.
21. Dung nhan lạnh lùng (tiếng cổ): sắc đẹp tuyệt vời.
22. Thục nữ: con gái đức hạnh. Thất phu: đàn ông thô bỉ.
23. Âu (ưu): lo lắng, phiền não.
24. Qua: ta; bậu: ngươi (bạn, anh bạn).
25. Vẽ hổ không thành: mưu đồ thất bại.
26. Khi không: không dưng.
27. Triệu Tử phá vòng Đương Dương: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Tân Dã phải bỏ chạy. Quân Tháo đuổi theo đến Đương Dương, thì Lưu Bị phải bỏ cả vợ con, cướp đường rút về phía Nam, tướng tá lạc nhau. Triệu Tử Long một mình đánh phá vòng vây trùng điệp của quân Tào, vượt cầu Trường Bản, tìm gặp Lưu Bị.
28. Chưa hãn: chưa rõ, chưa biết chắc chắn.
29. Báo trả ơn đức, đền đáp công lao.
30. Luận ngữ: "kiến nghĩa bất vi vô dũng dã", nghĩa là : Thấy việc nghĩa không làm là người vô dũng.
31. Thìn: răn, giữ.
32. Của vất vơ: của quấy quá, không mấy giá trị.
33. Lây dây: lỡ dở không xuôi bề nào.
34. Ngạt ngào: mùi thơm nức, đây ý nói thơ hay lắm.
35. Chẳng phen: chẳng bằng, chẳng sánh kịp. Tạ nữ: tức Tạ Đạo Uẩn đời Tấn nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn. Từ phi: tên Huệ, người đời Đường, tám tuổi đã giỏi việc văn thơ.
36. Dũ xuất dũ kì: càng đọc càng thấy hay thấy lạ
37. Mai điểu: tranh mai và chim đẹp hài hoà. Đây nói thơ xướng hoạ, tinh ý rất xứng hợp nhau.
38. Xúc cảnh hứng hoài: xúc cảm trước cảnh đẹp mà động lòng thơ.
39. Vẹn chữ tùng: trọn đạo làm vợ (theo chồng).
40. Ngưu lang: nhân vật thần thoại, chồng của Chức Nữ.
41. Dấu thỏ đường dê: nơi xa xôi hẻo lánh, không vết chân người, chỉ có dấu chân thỏ, chân dê rừng.
42. Tuỳ nhi: trẻ theo hầu.
43. Tiền trình: việc đi đường vừa rồi.
44. Đòi cơn: nhiều cơn.
45. No nao: nỏ biết lúc nào, chừng nào.
46. Sao sao: dù thế nào.
47. Hoa đình: nhà nhỏ ngồi thưởng hoa.
48. Thâm: Sâu sắc, ghi tạc sâu trong lòng hay xuất phát từ đáy lòng.
49. Sơn xuyên: núi sông, nói sự xa xôi cách trở.
50. Thứ đầu: lớp đầu, phần đầu.
51. Bình thuỷ tương phùng: bèo nước gặp nhau, tình cờ mà gặp.
52. Bằng hữu chi giao : tình bạn bè.
53. Thanh khâm: áo cổ xanh là áo của học trò thời xưa thường bận. Nợ thanh khâm, cũng như nói nợ bút nghiên.
54. Hai bảy: được hai cái bảy tức mười bốn
55. Hồ Việt nhứt gia: người Hồ (phía Bắc) kẻ Việt (phía Nam) chung một nhà.
56. Dồi: trau dồi son phấn.
57. Duyên cầm sắt: duyên vợ chồng hoà thuận êm ấm (như tiếng đàn sắt, đàn cầm hoà nhau).
58. Kẻ ở nước Tấn (phía Đông) người ở nước Tần (phía Tây), chỉ sự xa cách mỗi người một ngả.
59. Tức giai ngẫu (một đôi tốt đẹp), chỉ vợ chồng tốt đôi.
60. Dâu nam giản: Người con dâu trung hậu, đảm đang, lấy ý từ kinh Thi: "Hái rau tần từ bờ suối phía Nam", là thơ khen người vợ trẻ đảm đang lo việc nội trợ. Trai đồng sàng: chỉ chàng rể tốt.
61. Ngãi tế: nghĩa tế, con rể.
62. Đại khoa: là thi đỗ. Tiểu khoa: là cưới vợ.
63. Tót đời: hơn đời, hơn hết mọi người.
64. Trước: là trúc. Đây ý nói hai người kết bạn thân với nhau là rất tốt, như trúc, mai.
65. Bình thuỷ hữu duyên: bèo nước có duyên.
66. Giao kề: sánh ngồi gần kề bên nhau.
67. Kì: chỉ người tài giỏi khác thường.
68. Bạch Hàm Như Hoành: hai nhân vật nổi tiếng thơ vǎn, tài hoa trong truyện Bình Sơn Lãnh Yến.
69. Lương đống: rường cột, chỉ người có tài đức lớn giúp nổi việc nước.
70. Én hộc: ý nói chim én không sánh được với chim hộc. Én là loài chim nhỏ bay thấp, chỉ hạng tầm thường. Hộc (ngỗng trời) là loài chim bay cao, chỉ người có chí lớn.
71. Thượng trình: lên đường.
72. Tiểu nhi: con trẻ, tiếng cha mẹ gọi con. Lê đình: Sân có trồng lê.
73. Tống tình: tiễn nhau trong tình cảm.
74. Liễm dung: Nghiêm chỉnh dáng điệu để tỏ ý tôn trọng.
75. Phó công: đi thi lập công danh.
76. Nôn nao không yên trong lòng, như mưa, như gió luôn xao động.
77. Chim phượng thiêng đậu đúng cây ngô đồng, ví người hiền tài được ở vị trí xứng đáng.
78. Cung quế xuyên dương: ví việc thi đỗ, công thành danh đạt.
79. Tào khương (khang): Tấm Cám, vợ chồng lấy nhau từ lúc còn nghèo hèn.
80. Ý nói lòng dạ đổi thay, tham mới bỏ cũ. Đó và đǎng là hai dụng cụ được đan bằng tre để bắt cá.
81. May thì gặp duyên, rủi thì gặp nợ, lẽ đó đã bày ra rành rành.
82. Để được làm quan to, Ngô Khởi đã giết vợ. Chu Mãi Thần vì nghèo nên vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến chức thái thú.
83. Vầy đoàn: họp lại thành đoàn.
84. Sông đẹp núi lạ, ý nói cảnh đẹp khó tả.
85. Gặp thời, thoả lòng đua sức đua tài.
86. Tình hoài: tâm tình cảm xúc ở trong lòng.
87. Cửa Võ: Mỏm núi đá hình cái cửa có sóng dữ, tục truyền hàng nǎm vào tiết tháng ba, cá chép khắp nơi kéo về vượt Vũ môn, con nào nhảy qua được thì hoá rồng. Nhân đó, cửa Võ chỉ trường thi, và thi đỗ gọi vượt qua Vũ môn.
88. Trực nói phen này mặc sức vẫy vùng.
89. Vân Tiên e ngại lần này không theo kịp chúng bạn.
90. Kinh địa: đất kinh đô.
91. Tác chừng: tuổi tác ước chừng khoảng hai mươi.
92. Cho bề: cho nhiều, như nói bề bộn, bề bề.
93. Ướp ngâu: ướp hoa ngâu vàng rất thơm.
94. Trà ve: trà đựng trong chai, lọ nhỏ. Điểm tuyết: Lấm tấm màu tuyết, ý nói trà ngon. Cúc hương: hương hoa cúc.
95. Văn vật: Nói nơi nào có một nền văn hoá cao.
96. Viết tùng cổ thi: viết dựa dẫm theo thơ cũ có sẵn.
97. Bất tài đồ thơ: không có tài nǎng về sách vở, tức là nói người học tồi, sức học kém cỏi.
98. Tôn Tẩn là bạn học binh pháp với Bàng Quyên, sau bị Quyên hại, chặt hai chân, để gìm tài. Thầy học Quỷ Cốc Tử đã bảo trước cho Tôn Tẩn nhưng ông không đề phòng (không lừa, không lựa chọn).
99. Tuyền: trọn đủ cả. ý cả câu: ông có thông thuộc cả kinh sử hay không?
100. Hay ghét hay thương: biết ghét và biết thương.
101. Tầm phào: vu vơ, hão huyền.
102. Kiệt Trụ: Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương, cả hai đều bạo ngược, vô đạo, hoang dâm.
103. U Lệ: U vương và Lệ vương thời nhà Chu làm nhiều việc bạo ngược, vô đạo. Đa đoan: lắm chuyện rắc rối.
104. Ngũ bá: cuối đời nhà Chu, nǎm vua chư hầu kế tiếp nhau nổi lên làm chủ một thời, nhân dân phải lầm than điêu đứng. Phân vân: lộn xộn bối rối như cảnh loạn.
105. Đời thúc quý: đời suy loạn sắp bị diệt vong. Phân bǎng: chia lìa.
106. Sớm đầu tối đánh: sớm đầu hàng, tối lại đánh. Thánh nhân: chỉ Đức Khổng Tử, không được dùng, từng đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuông tìm cách hành đạo của mình mà không được. Về sau ông trở về nước Lỗ mở trường dạy học.
107. Nhan Tử: tức Nhan Uyên, học trò giỏi của Khổng Tử.
108. Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, dựng nước ở đất Thục, hết sức lo việc trung hưng nhà Hán, nhưng không thành.
109. Đồng Tử: tức Đổng Trọng Thư, danh nho đời Hán.
110. Nguyên Lượng: tức Đào Tiềm đời Tấn, tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn.
111. Hàn Dũ: đời Đường, tinh thông lục kinh, bách gia chư tử, đỗ tiến sĩ làm quan ở triều. Vua mê tín đạo Phật, rước xương Phật vào cung, ông dâng sớ cực lực ngăn cản. Vì thế ông bị đổi ra làm quan ở đất Triều Châu.
112. Liêm, Lạc: chỉ Chu Đôn Di ở Liêm Khê và hai anh em họ Trình ở Lạc Dương. Cả ba đều là những nhà triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về dạy học.
113. Nói nhân tài ở chỗ nghèo hèn.
114. Kinh luân: tài sắp đặt tổ chức việc nước.
115. Nghiêu Thuấn là tiếng gọi chung hai vua Nghiêu và vua Thuấn, hai vị vua kế tiếp nhau trong huyền sử Trung Hoa cổ. Tương tuyền rằng đây là hai vị minh quân và thời Nghiêu Thuấn được coi là thời thái bình an lạc.
116. Sào Phủ, Hứa Do: Hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Nghiêu.
117. Bá Di và Thúc Tề, hai người lấy việc nước mất làm xấu hổ, bỏ lên núi thú dương hái rau vi mà ăn, không chịu ăn thóc nhà Chu. Chẳng khứng: không chịu.
118. Ai hầu chi ai: không ai chịu hầu hạ, phục dịch cho ai cả. Ông Y ông Phó là hai đại công thần nhà Thương.
119. Thái Công: Khương Tử Nha, già hơn 70 tuổi vẫn ngồi câu cá ở bờ sông Vị. Chu Văn Vương nhân đi săn gặp ông, bèn đón ông về kinh, tôn làm thầy. Ông giúp Văn Vương và con là Vũ vương dựng nghiệp nhà Chu.
120. Nghiêm Lăng: là một ẩn sĩ đời vua Quang Vũ.
121. Cày mây câu nguyệt: cày trong mây, câu dưới trăng là nói cảnh thanh cao ẩn dật. áo cầu: áo cừu, áo may bằng da thú. Nghiêm Lăng ngồi lâu năm áo cừu đã rách nát.
122. Trần Đoàn: học rộng, tinh thông kinh Dịch, ẩn ở núi Vũ Dương, tu luyện đạo tiên.
123. Túi thơ ngâm phong vịnh nguyệt, coi công danh phú quý như giấc chiêm bao.