Đây là Thành ngữ khi nhắc đến Lư Sơn. " Lư Sơn Chân Diện Mục " là Bộ Mặt Thật Của Lư Sơn, thường được nói tắt thành Thành Ngữ 4 chữ là LƯ SƠN DIỆN MỤC 廬山面目, theo tích sau đây :
成語故事
廬山因周武王時期高人匡俗結廬而居而得名,它三面臨江,山勢十分雄偉,山清水秀,風景奇麗。它臨江靠水,山上煙霧縹緲,人們很難看清它的真實面貌。蘇軾寫《題西林壁》:
“橫看成嶺側成峰,
遠近高低各不同。
不識廬山真面目,
只緣身在此山中。”
THÀNH NGỮ CỐ SỰ
Tên gọi LƯ SƠN là do cao nhân Khuông Tục đời Châu Võ Vương dựng lều ( kết lư ) trên núi đó ở mà thành tên gọi . Lư Sơn 3 mặt giáp sông, thế núi vô cùng hùng vĩ, sơn thanh thủy tú, phong cảnh cực kỳ tráng lệ. Vì 3 mặt giáp với sông nước, nên trên núi luôn có mây mù vây phủ, người đời khó mà trông rõ bộ mặt thật của Lư Sơn, nên mới có Thành ngữ trên. Tô Đông Pha ( Tô Thức ) từng làm bài thơ " ĐỀ TÂY LÂM BÍCH " như sau :
Hoành khan thành lãnh trắc thành phong,
Viễn cận cao đê các bất đồng.
Bất thức Lư Sơn chân diện mục,
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung.
Chú Thích :
ĐỀ TÂY LÂM BÍCH là bài thơ của Tô Đông Pha đề lên trên vách của Chùa TÂY LÂM TỰ, nằm ở phía tây của dãy LƯ SƠN.
1. LƯ, LÔ : Ta có 7 chữ vừa đọc là LƯ vừa đọc là LÔ như sau :
*. 盧 LƯ : Họ Lư.
*. 爐,鑪 : Có bộ HỎA và bộ KIM một bên, nghĩa là cái Lò.
*. 瀘 LÔ : Có 3 chấm thủy một bên, nghĩa là Con sông LÔ.
*. 籚 LÔ : Có bộ Trúc hoặc bộ Thảo trên đầu là VI LÔ : lau sậy.Trong Truyện Kiều có câu :
VI LÔ san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
*. 鱸 LƯ : Có bộ Ngư, là tên một loại cá, thịt ăn rất ngon. Đặc biệt là loại sống ở Tùng Giang có 4 mang rất quý hiếm, mà Tào Tháo rất thích ăn.( Xem Tam Quốc đoạn TẢ TỪ ).
*. 驢 LƯ : Có bộ Mã, là con Lừa.
*. 廬 LƯ : Là Nhà cất sơ sài. THẢO LƯ : là Nhà cỏ. Đây là chữ LƯ trong bài thơ, do tích cao nhân Khuông Tục đời Châu Võ Vương kết nhà tranh trên núi đó ở mà thành tên LƯ SƠN. Trong Truyện Kiều đoạn Giác Duyên cứu Kiều trên sông Tiền Đường cũng có câu :
Gặp nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về THẢO LƯ.
2. HOÀNH , TRẮC : Hoành là Ngang, Trắc là mặt bên, mặt xéo.
3. LÃNH, PHONG : Lãnh là Đỉnh núi. Phong là Ngọn núi.
4. VIỄN, CẬN, CAO, ĐÊ : là Xa, Gần, Cao, Thấp.
5. CHỈ DUYÊN : Chữ Duyên ở đây đồng nghĩa với chữ NGUYÊN là Nguyên do, là Duyên cớ. Nên CHỈ DUYÊN có nghĩa giản dị là : Chỉ Vì .
Diễn nôm :
Trông ngang thành đỉnh, xéo thành non,
Cao thấp gần xa cũng mấy hòn.
Mặt thật Lư Sơn ai biết được,
Nào hay thân đã ở Lư Sơn !
Đỗ Chiêu Đức.
题林西壁 Đề Tây Lâm Bích
Giang Hành Vô Đề
Trong 100 bài Ngũ Ngôn Tuyệt Cú " Giang Hành Vô Đề " của TIỀN KHỞI đời Đường, có một bài nhắc đến Lư Sơn rất nổi tiếng còn truyền tụng đến hiện nay.
Xin giới thiệu Tiền Khởi và bài thơ sau đây :
钱起 Tiền Khởi
钱起 (722-780 ),唐代诗人,“大历十才子”之一。字仲文。吴兴(今属浙江)人。天宝九载 (750)参加进士试,所作《省试湘灵鼓瑟》诗末二句“曲终人不见,江上数峰青”,为人传诵,称为绝唱。乾元年间(758~760),任长安附近的蓝田县尉,与王维时相过从,有诗酬答。王维晚年某些山水田园诗的风格对他有一定影响。大历中,任司勋员外郎、司封郎中,官至考功郎中,后人因称为钱考功。
Tiền Khởi ( 722-780 ). Thi nhân đời Đường, là một trong " Đại Lịch Thập Tài Tử ". Tự là Trọng Văn. Người huyện Ngô Hưng ( nay thuộc tỉnh Chiết Giang ). Năm Thiên Bảo thứ 9, ứng thi Tiến Sĩ, nổi tiếng với bài " Tỉnh Thí Tương Linh Cổ Sắc " nhất là 2 câu cuối : "Khúc chung nhân bất kiến, Giang thượng sổ phong thanh ", được truyền tụng là tuyệt cú. Giữa năm Càn Nguyên, nhậm chức Huyện Úy Huyện Lam Điền gần Trường An, thường qua lại và đối đáp thơ với Vương Duy, làm quan đến chức Khảo Công Lang Trung, nên người đời sau thường gọi ông là Tiền Khảo Công.
江行無題 GIANG HÀNH VÔ ĐỀ
咫尺愁風雨, Chỉ xích sầu phong vũ,
匡廬不可登。 Khuông Lư bất khả đăng.
秖疑雲霧窟, Chỉ nghi vân vụ quật,
猶有六朝僧。 Do hữu Lục Triều tăng.
錢起 Tiền Khởi.
Chú Thích :
1. CHỈ XÍCH : Chỉ là 8 tấc, Xích là 1 thước. CHỈ XÍCH đi chung có nghĩa là : Trong gang tất. Ta có Thành ngữ CHỈ XÍCH THIÊN NHAI 咫尺天涯, có nghĩa : Gần nhau trong gang tấc mà tưởng chừng xa cách tận chân trời. Trong Truyện Kiều có câu :
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong GANG TẤC lại gấp mười quan san.
2. KHUÔNG LƯ : 庐山,山体呈椭圆形,典型的地垒式长段块山约25公里,宽约10公里,绵延的90余座山峰,犹如九叠屏风,屏蔽着江西的北大门。以雄、奇、险、秀闻名于世,素有“匡庐奇秀甲天下”之美誉,
Một tên gọi khác của Lư Sơn. Dãy núi có hình bầu dục dài khoảng 25 km, rộng 10 km, chập chùng nối tiếp nhau khoảng hơn 90 ngọn núi, giống như một bình phong 9 tầng, che lấp cả Bắc Đại Môn của tỉnh Giang Tây. Nổi tiếng với 4 tiêu chuẩn HÙNG, KỲ, HIỂM, TÚ.( Hùng vĩ, Kỳ bí, Hiểm trở, Tú lệ ), được xưng tụng với mỹ danh : " Khuông Lư kỳ tú giáp thiên hạ " , là nơi nghỉ mát lý tưởng cho mùa hè, nên rất được du khách trong ngoài nước hâm mộ.
3. VÂN VỤ QUẬT : Vân là mây, Vụ là Mù Sương, Quật là Hang Động. VÂN VỤ QUẬT là Hang động luôn luôn được mây mù che phủ.
4. LỤC TRIỀU : Là thời đại loạn lạc trước nhà Đường gồm có các nước : Đông Tấn, Tây Tấn ( có sách cho là nước Ngô ), Tống, Tề, Lương và nước Trần.( Nổi tiếng với Trần Hậu Chủ và khúc hát Hậu Đình Hoa ).
Dịch Nghĩa :
Chỉ cách nhau trong gang tấc ( ý chỉ rất gần ), mà lại phải buồn vì mưa gió nên không thể leo lên được tận trên ngọn Khuông Lư. Ta lại càng ngờ ngợ nghi rằng, biết đâu trong những hang động luôn luôn bị mây mù che phủ kia, còn có những ông sư già đi tu hồi thuở Lục Triều !.
Khéo ngớ ngẩn, nhưng chính sự ngớ ngẩn nầy của Tiền Khởi càng làm cho Lư Sơn có vẻ kỳ bí hấp dẫn hơn lên !
Diễn Nôm :
Gang tấc sầu mưa gió,
Khuông Lư chẳng thể leo.
Nghi trong mây mù động,
Còn có sư Lục Triều !.
Lục bát :
Buồn vì gang tấc gió mưa,
Chẳng lên đặng ngọn Khuông Lư sớm chiều.
Nghi trong hang động mây nhiều,
Lão tăng hồi thuở Lục Triều còn tu !
Đỗ Chiêu Đức.
Nói thêm
với Thầy Phan Huy Viên CHÂN DIỆN MỤC :
Thưa Thầy,
Hồi mới về sinh hoạt với trường nhà, em cứ tưởng là Thầy họ LƯ tên SƠN, vì thành ngữ " Lư Sơn Chân Diện Mục" rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong văn chương Xưa và Nay , ai dè đâu Thầy lại còn là TÂY ĐÔ CUỒNG SĨ nữa, em chịu thua Thầy luôn !
Chiêu Đức.
Bạn tri âm Chiêu Đức ơi !
Tôi vừa làm biếng vừa không còn sức khoẻ , nên những bài nào tôi không nắm vững , tôi không dịch gửi hồi âm ( sách vở mất hết , làm biếng tra cứu , truy cập ) , bạn đừng nghĩ là tôi lạt tình nhé . Hôm trước đã dịch bài Lư Sơn , không biết đã gửi các bạn chưa ?
LƯ SƠN
Khói Lư Sơn , sông Chiết nước trào
Không đi tới chốn hận nào tiêu
Đến rồi cũng chỉ bao nhiêu thứ
Cũng khói núi , nước triều thao thao
C.D.M.
Có một bài tôi thuộc từ nhỏ , ngâm nga hoài mà quên tác giả ;
NHÂN DỤC VÔ NHAI (?)
Vũ Đế vi quân dục tác tiên
Thạch Sùng Vương Khải hận vô tiền
Hằng Nga chiếu kính do hiềm sũ
Bành Tổ thiêu hương chúc thọ niên !
Bạn coi lại giùm xem , tôi nhớ vậy đúng chưa ?
Tác giả là ai ?
Tựa bài thơ là gì ?
tôi tạm dịch
Vũ Đế làm vua muốn hoá tiên
Thạch Sùng Vương Khải hận không tiền
Soi gương ả Nguyệt e mình xấu
Bành Tổ nguyện cầu : sống mãi thêm
C.D.M.
Thưa Thầy,
Bài thơ mà Thầy nhắc đó, không có tên Tác Giả, vì đó là bài thơ nằm trong Khuyến Thế Ca ( Bài Ca Khuyên đời ) của dân gian, có tựa đề là TỨ BẤT TÚC ( 4 cái chưa đủ ) để chỉ Lòng tham không bờ bến của con người ( Nhân dục vô nhai人欲無涯 ). Vì là thơ được truyền tụng trong dân gian nên mỗi nơi mỗi khác đi vài chữ cho hợp với địa phương mình đang ở, em xin trình bày một dị bản như sau :
四不足 TỨ BẤT TÚC
武帝為君欲作仙. Võ Đế vi quân dục tác tiên,
石崇巨富苦無錢. Thạch Sùng cự phú khổ vô tiền.
嫦娥照鏡嫌顔醜. Thường Nga chiếu kính hiềm nhan xú,
彭祖焚香祝壽年. Bành Tổ phần hương chúc thọ niên.
Nghĩa Bài thơ :
1. Võ Đế hay Vũ Đế cũng thế. Có thể chỉ 2 người : Một là Hán Võ Đế, một là Lương Võ Đế. Hán Võ Đế chuộng đạo Phật thì ai cũng biết rồi, nhưng Lương Võ Đế thì ít người biết. Xin giới thiệu ông Vua họ Lương nầy với mọi người qua tác phẩm SÃI VÃI của Nguyễn Cư Trinh như sau :
..... Đời nào tu cho bằng Tống Đạo Quân ?
Đời nào tu cho bằng LƯƠNG VÕ ĐẾ ?
Nhục mạn Bắc sao Tiên chẳng đến cứu về ?
Đói Đài Thành sao Phật không ra trợ nạn ?.....
Võ Đế làm Vua, nhất trên đời rồi, mà còn chê, muốn làm Tiên, làm Phật cho sướng hơn Vua nữa !!!
2. Thạch Sùng nhà giàu đến nứt đổ vách, tiền lọt ra ngoài, thế mà vẫn than khổ là không có tiền !!!
3. Thường Nga là " Bà " Hằng Nga đó. Đẹp như Hằng Nga, thế mà soi gương vẫn còn chê là mình xấu, chưa được thiệt đẹp !!!
4. Bành Tổ là ông già sống dai... nhách, tới hơn 800 tuổi, thế mà còn thấy chưa đủ, vẫn còn phải thắp nhang cầu cho được thêm tuổi thọ nữa !!!
Ôi !. Lòng tham của con người quả thật là vô bờ vô bến !
Diễn Nôm :
BỐN CHƯA ĐỦ
Võ Đế chê vua muốn Phật Tiên !
Thạch Sùng giàu sụ, khóc không tiền !?
Hằng Nga nhìn kiếng than mình xấu !
Bành Tổ thắp nhang vái sống thêm !!!...
Đỗ Chiêu Đức.
Cám ơn bạn nhiều lắm , bạn tra cứu rất mau .
Như Vũ Đế , tôi chỉ nghĩ đến Hán Vũ Đế , mà quên Lương Vũ Đế cũng muốn thành Tiên , Thành Phật !
C.D.M.
Quên Đi tiếp vần với Chiêu Đức:
Viết Trên Vách Chùa Tây Lâm
Ngang như đường núi nghiêng là ngọn
Thấp thoáng gần xa chẳng thẳng hàng
Cảnh thật Lư Sơn nào nhận biết
Dù đang đứng giữa núi non ngàn
Ngoài bài thơ "Đề Tây Lâm Bích" của Tô Thức do Chiêu Đức giới thiêu, Quên Đi cũng gởi đến một tác phẩm về Lư Sơn của Lý Bạch."Vọng Lư Sơn Bộc Bố" chỉ thuần về cảnh, không sâu sắc như "Lư Sơn" của Tô Đông Pha
望廬山瀑布 Vọng Lư sơn bộc bố
日照香爐生紫煙, Nhật chiếu hương lô sinh tử yên
遙看瀑布掛前川。 Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
飛流直下三千尺, Phi lưu trực hạ tam thiên xích
疑是銀河落九天 Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
李白 Lý Bạch
Dịch Nghĩa:
Ngắm thác ở Lư Sơn
Mặt trời chiếu xuống "lò hương" sinh ra màu khói tím,
Từ xa nhìn dãy nước treo như con sông phía trước
Chảy ào thẳng xuống từ ba nghìn thước,
Ngỡ là Ngân Hà rơi khỏi chín tầng mây
Dịch Thơ:
Nắng rọi lò hương khói tím bay
Xa trông dãy nước ngỡ sông dài
Rơi từ cao xuống ba ngàn thước
Cứ tưởng sông Ngân rớt khỏi mây
Quên Đi
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
CHÚ THÍCH :
* NHỰT 日: là Mặt Trời, hễ có mặt trời là có nắng, nên NHỰT cũng có nghĩa là ÁNH NẮNG.
* HƯƠNG LƯ香爐: là Hương Lư Phong香爐峯, ngọn núi cao ở phía bắc của Lư Sơn luôn bị bao phủ bởi hơi nước mịt mù như sương khói, nên khi nhận tia nắng mặt trời chiếu rọi thì ửng lên màu tim tím như một Lò Hương đang nghi ngút khói. Vì thế mà có tên là Hương Lư Phong.
* TRỰC 直 : là Thẳng. TRỰC HẠ 直下 là Thẳng xuống.
* TAM THIÊN XÍCH 三千尺 : là Ba ngàn thước, đây chỉ là cách Nói Nhấn mà thôi, ý chỉ Rất Rất Cao !
* CỬU THIÊN 九天 hay CỬU TRÙNG THIÊN 九重天 : là Quan niệm của người xưa, cho rằng Trời có chín từng, nên gọi là Chín từng trời hay Chín từng mây. Trái với Địa Ngục có 18 từng, nên gọi là : Mười Tám từng Địa Ngục.
CỬU THIÊN trong bài thơ ý chỉ: Cao ngất trên bầu trời cao.
NGHĨA BÀI THƠ :
NGẮM THÁC NƯỚC LƯ SƠN
Ánh nắng chiếu vào đám mây mù trên Đỉnh Hương Lư làm cho sương khói ửng lên màu tim tím như một lư hương đang nghi ngút khói. Đứng ở xa xa nhìn thác nước như một dòng sông treo ngược trước đỉnh Hương Lư và trút thẳng xuống từ trên ba ngàn thước cao, làm cho ta ngở như là con sông Ngân Hà đang đổ từ trên chín tầng mây xuống vậy !
Với thủ pháp nghệ thuật điêu luyện, Thi Tiên Lý Bạch đã đã tả lại vẻ hùng vĩ tráng lệ của con thác Lư Sơn như từ trên chín từng mây đổ xuống qua sương khói của đỉnh Hương Lư sầm sập trút thẳng xuống như dãy Ngân Hà nghiêng đổ. Lời thơ mạnh mẽ với các từ như " Phi lưu trực hạ : Chảy như bay đổ thẳng xuống !", " Ngân Hà LẠC cửu thiên : là Ngân Hà RƠi từ trên chín từng trời rơi xuống !"
DIỄN NÔM :
Nắng chiếu Hương Lư mây tím bay,
Thác xa trông tựa nước sông dài.
Trút từ ngàn thước như bay xuống,
Ngở nước Ngân Hà đổ xuống đây.
Song Thất Lục Bát :
Đỉnh Hương Lư nắng lồng mây nước,
Thác xa trông treo ngược sông dài.
Ba ngàn thước nước như bay,
Ngân Hà tự chín tầng mây tuôn dòng !
Đỗ Chiêu Đức
Nhất Tự Sư
Như tất cả mọi người đều biết, trong trời đông giá rét, thậm chí tuyết phủ ngập trời, hoa mai vẫn cứ ngạo nghễ vương lên, kết nụ trổ hoa bất chấp sương rơi tuyết phủ. Cùng với Tùng Trúc hợp thành : TÙNG TRÚC MAI TUẾ HÀN TAM HỮU 松竹梅歲寒三友, là ba người bạn trong mùa đông hàn lạnh lẽo ! Không mạnh mẽ cao lớn chửng chạc như Tùng, không xanh tốt dẽo dai vươn dài như Trúc, Mai ẻo lả khẳng khiu với những cành nhánh mảnh mai, nhưng những đọt xanh vẫn manh nha, nụ non vẫn đâm chồi nẩy lộc ... Xin mời nghe một câu chuyện mai nở sớm trong trời đông tuyết gía sau đây ...
Theo sách " Đường Tài Tử Truyện"《唐才子传》ghi chép:
Nhà sư thi sĩ TỀ KỶ 齊己 (863—937) , người ở cuối đời Đường, đầu đời Ngũ Đại. Lúc nhỏ gia đình nghèo khó, phải đi chăn trâu độ nhật. Nhưng lại có chí cầu học, mỗi ngày đều đọc sách và làm thơ trên lưng trâu. Sư Cụ trong chùa thương tình cho vào chùa tu để có thời gian học hành và nghiên cứu Kinh Phật.
Một hôm gần cuối năm, như thường lệ, Tề Kỷ thức sớm cúng Phật và làm công phu buổi sáng trong khi đêm qua tuyết rơi rất lớn. Mở cửa ra sân nhìn về thôn xóm xa xa, chợt thấy trong nền tuyết trắng bao la lấm tấm có mấy cành mai đà hé nở ! Cảm cho cái tinh thần bất khuất trước tuyết đông giá lạnh, cái sức sống mạnh mẽ ngạo nghễ vươn lên giữa biển tuyết mênh mông của hoa mai, Tề Kỷ về phòng làm ngay bài thơ " TẢO MAI 早 梅 " để tán thán cho việc hoa mai nở sớm. Trong bài thơ có 2 câu rất hay là :
Tiền thôn thâm tuyết lý, 前村深雪裏
Tạc dạ SỔ chi khai. 昨夜數枝開。
Có nghĩa :
- Trong rừng tuyết của xóm phía trước xa xa...
- Tối đêm qua đã có VÀI cành mai đà hé nở !
Tề Kỷ rất đắc ý với 2 câu thơ nầy, nên mới đem khoe với
Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911), một thi sĩ đương thời. Trịnh Cốc đọc xong phê rằng : " SỔ Chi Khai 數枝開 " là VÀI cành mai đà nở, chưa thấy được cái " TẢO 早 " là SỚM của Mai, nên đổi lại là " NHẤT CHI KHAI 一枝開 " để nêu bật được cái SỚM của Hoa Mai nở trong tuyết lạnh ! Tề Kỷ nghe xong, phục sát đất, bèn sửa lại thành :
Tiền thôn thâm tuyết lý, 前村深雪裏
Tạc dạ NHẤT chi khai. 昨夜一枝開。
... và từ đó về sau gọi Trịnh Cốc là " NHẤT TỰ SƯ 一字师 ", vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho MỘT chữ ", lại vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho chữ NHẤT " !
Toàn bài thơ TẢO MAI của sư Tề Kỷ như sau :
早 梅 TẢO MAI
萬木凍欲折, Vạn mộc đống dục chiết,
孤根暖獨回。 Cô căn noãn độc hồi.
前村深雪裏, Tiền thôn thâm tuyết lý,
昨夜一枝開。 Tạc dạ nhất chi khai.
禽窺素豔來。 Cầm khuy tố diễm lai.
明年如應律, Minh niên như ứng luật,
先發望春臺。 Tiên phát Vọng Xuân Đài !
齊己 Tề Kỷ
CHÚ THÍCH :
TẢO MAI : là Mai nở sớm, cũng có nghĩa là : Mai nở sớm hơn tất cả các loài hoa trong trời đông giá lạnh.
ĐỐNG DỤC CHIẾT : Đống là Đong đá, Dục là Muốn, Chiết là Gãy. Có nghĩa là : Đong đá dòn đến muốn gãy luôn.
NOÃN là Ấm. HỒI là Hồi Sinh. Nên Noãn Độc Hồi là : Nhờ Hơi ấm mà đơn độc hồi sinh .
ĐỆ 遞 là Đệ Trình. Ở đây có nghĩa là Truyền đạt. Nên Phong Đệ là : Gió Đưa, gió đẩy.
CẦM là Chim muông. KHUY là Nhìn ngắm.
TỐ DIỄM là Trong Trắng đẹp đẽ. Ở đây chỉ Bạch Mai.
ỨNG LUẬT : là Theo Quy Luật Tự Nhiên.
VỌNG XUÂN ĐÀI : là Cái Đài Ngóng Xuân, lên đó để đợi mùa xuân tới. Đứng trên đài cao, có thể nhìn thấy mặt trời mọc trước, có thể đón tia đầu tiên của ánh nắng mùa xuân trứơc hơn là những người ở dưới thấp.
NGHĨA BÀI THƠ :
Muôn ngàn thảo mộc đều lạnh cóng đến muốn gãy ra. Chỉ riêng có rễ của hoa mai là biết hút hơi ấm trong đất mà đơn độc hồi sinh. Cho nên, trong nền tuyết trắng xóa mênh mông của xóm trước xa xa, đêm qua một cành mai đã vươn lên nở hoa trong trời đông giá rét. Gió đã đưa cái hương thơm nhè nhẹ thoảng đi và chim cũng đã ngạc nhiên nhìn ngắm cành bạch mai thanh khiết trắng trong đẹp đẽ mà bay đến. Nếu sang năm lại theo cái quy luật Nở Sớm tự nhiên nầy, thì hoa mai ơi, hãy nở trước ở Vọng Xuân Đài để cho nhiều người nhìn ngắm, chớ ở nơi hoang sơ lạnh lẽo vắng vẻ nầy, có ai biết đến mà thưởng thức nhìn ngắm đâu !
Như trên đã nói, Sư Tề Kỷ đi tu chỉ vì nghèo, bất đắc dĩ và bất đắc chí không thi thố được tài năng, nên còn nặng nợ với công danh, ông ví mình như cành mai nở sớm kia, vượt lên trên trăm hoa để khoe sắc, nhưng lại khoe sắc trong vùng tuyết lạnh không người.... cũng như tài năng của ông bị mai một ở trong chùa không người biết đến vậy ! Cho nên, ông đã khuyên mai nên nở ở Vọng Xuân Đài cho mọi người nhìn ngắm để biểu lộ cái ao ước thầm kín trong lòng... Nếu đi thi ta cũng sẽ toả sáng như mai sớm tỏa hương cho mọi người ngưỡng mộ vậy !
DIỄN NÔM :
TẢO MAI
Muôn cỏ hoa đông cứng,
Rễ truyền hơi ấm xanh.
Xóm ngoài trong tuyết lạnh,
Đêm qua nở một cành.
Gió đưa hương thoang thoảng,
Chim ngắm vẻ đẹp xinh.
Nếu sang năm lại sớm,
Vọng Xuân Đài nở quanh.
Lục bát :
Cỏ hoa lạnh cứng trời đông,
Riêng mai hơi ấm vẫn không phai tàn.
Xóm ngoài trong tuyết mênh mang,
Đêm qua nở trắng một cành bạch mai.
Gió đưa hương thoảng ra ngoài,
Chim nhìn ngắm vẻ thanh bai trong lành.
Sang năm lại sớm nở xanh,
Vọng Xuân Đài đó chung quanh lắm người.
Đỗ Chiêu Đức
Đọc bài thơ nầy, lại làm ta nhớ đến 2 câu cuối của bài " Cáo Tật Thị Chúng 告疾示眾 " của Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096) là một Thiền sư của Việt Nam ta là :
莫謂春殘花落尽, Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
庭前昨夜一枝梅 ! Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Có nghĩa :
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân, đêm trước, nở cành mai!
Khi viết 2 câu trên, hẳn Mãn Giác Thiền Sư cũng đã đọc qua bài thơ của nhà sư Tề Kỷ rồi.
Hẹn bài viết sau sẽ giới thiệu về TRỊNH CỐC, một thi sĩ của cuối đời Đường, đầu đời Ngũ Đại.
Đỗ Chiêu Đức