Kính gởi Quí Thầy Cô, Đồng môn, Niên Trưởng cùng Các em Học sinh Tân Hưng quí mến !
Xin được thay mặt Thân Mẫu, thay mặt gia đình, rất rất chân thành gởi đến Quí Vị Và Các Em lời cám ơn chân thành nhất, đã chia buồn, điếu tang cho Gia Phụ là Đỗ Văn Vi, thất lộc ngày 16 tháng 11 năm 2013 ( nhằm ngày 14 tháng 10 năm Quí Tỵ ) Vừa qua.
Lời Cám ơn muộn màng, Vì không mở được E-mail trong thời gian ở Việt Nam.
Kính gởi đến Quí Vị Và Các Em 84 câu thơ sơ yếu Lý Lịch của cuộc đời Gia Phụ, đây chỉ là chút lòng của " tấc cỏ " không thể bù đắp nổi " ánh nắng của ba Xuân "...
Tám tư một cõi đi về
Nhất sinh lao nhọc đề huề một thân.(1)
NHỚ TÙA HIA (2)
Tùa hia nổi tiếng một thời,
Cái Răng Ba Láng người người biết tên.
Ông Cò, Ông Cửu, Cái Chanh,
Trẻ già quen gọi chú, anh, ê, thằng !
Chào đời một chín ba mươi, (1930)
Quê hương xa tít mù khơi Quảng, Trừng.(3)
Ba bảy phiêu bạt phong trần,(1937)
Việt Nam cùng mẹ lên đường tìm cha.
Bốn mươi, theo học chữ Hoa,(1940)
Tân Triều trường mới ê a học hành .
Giang hồ trôi nổi lênh đênh,
Thương hồ cuộc sống bấp bênh qua ngày.
Tốt nghiệp liền phải đi cày,
Ba năm góp vốn miệt mài một thân. (4).
Nấu cơm, chẻ củi, quét sân
Gánh nước, đi chợ, nấu ăn, đủ nghề.
Mặc người sai khiến hả hê,
Cam thân nghèo khó chẳng hề thở than.
Bạc bài, âm nhạc, ca sang,
Hòa cùng cậu chủ bản đàn “măng đô”.
Khẩu cầm, tiêu, sáo, nhị hồ,
Nhà nghèo được dịp điểm tô cuộc đời. (5)
Thông minh tài trí tuyệt vời,
Phòng bên kế toán gọi mời đêm đêm.
Chi thu sổ sách học thêm,
Bàn tính, bàn toán gõ liền như ai.
Chủ nhân để mắt thương tài,
Gả liền cháu gái, trai tài sánh đôi. (6)
Mười tám tuổi chợt đổi đời,
Lãnh ngay “Tằng khạo” ghe chài sướng thân .(7)
Tưởng rằng dứt nợ phong trần,
Nào hay mạng số lần khần trêu ngươi.
Ghe chài bị đụt, chìm ngay !
Việt Minh kháng chiến bắt đày vô bưng.
Đầu lòng con đẻ giữa chừng
Đến khi được thả, con mừng thôi nôi !
Trở về cuộc sống nổi trôi,
Cái Chanh quá bước một thời mãi mê.
Ba mươi sáu con số đề,
Sòng bài, tài xiểu, bàn đề, ra thai. (8)
Trải qua một cuộc trần ai,
Đổi nghề nấu rượu vô chai “Hoa đèo”
Hủ chì, Hèm để nuôi heo,
Rượu thuốc, hổ cốt lại đèo “Áp sanh”. (9)
Nhưng rồi cũng chịu đành hanh,
Mở tiệm tạp hóa đua tranh với đời.
Vi Ký, tiệm bán không lời,
Đành thôi, để tiếng một thời “Tùa Hia” !
Cái Chanh thôi hết đi dìa,
Dọn về Ba Láng chia lìa từ đây!
Năm Căn, tiếp tục đi cày
Cân than, tài phú, cho dài đường đi.(10)
Bà Cai, lần nữa thiên di,
Chuyển sang chành lúa một khi, lỡ thời !
Quận Lẻ, khắc nghiệt đua đòi,
Đuổi nhà, lần nữa di dời Cái Răng.(11)
Từ đây ổn định tiềm năng,
Nổi danh Tài phú Cái Răng một thời.
Huê hồng béo bở tuyệt vời,
Xây lầu quê ngoại, rạng ngời thanh danh (12)
"Tùa hia", giờ đã công thành,
Cháu con khôn lớn học hành đến nơi.
Tiêu dao cùng hưởng phước trời,
Thọ qua tám chục, ai người chẳng mong !?
"Kim hôn" kỷ niệm năm mươi năm,
"Toản hôn" sáu chục năm ròng sống chung.
"Lục tuần" rồi "Thất tuần" xong,
"Bát tuần" thượng thọ, cháu ông cháu bà !
Bốn đời sum họp một nhà,
Việt Kiều yêu nước gần xa tụ về.
Mỗi năm cứ Tết gần kề,
Năm châu bốn bể đề huề một khi ! (13)
Vinh hoa phú quý kể chi,
Cái Răng ai dám sánh bì với ông ?!
Ước mơ giờ đã toại lòng,
Mong ông sớm được siêu thăng cõi ngoài !
Giờ đà nhẹ bước trần ai,
Nợ trần rủ sạch, thân ngoài hư không !
..................xxx...............
Một đời cần mẫn nên công,
Nêu gương “ Tiểu phú do cần “ ai ơi ! (14)
Mong cha sớm được lên Trời,
Tiêu diêu cực lạc, một đời bôn ba !!!
Trưởng nam,
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Kính điếu
2013
Chú Thích :
(1). Đề Huề : Đề là Xách, Huề là Dắt. Từ kép Đề Huề là Mang Xách, Dắt díu, Gánh Vác. Trong Truyện Kiều, khi tả lúc Kim Trọng Xuất hiện, Nguyễn Du đã Viết :
Đề Huề lưng túi gió trăng ,
( Đề Huề nầy là Mang Xách ), Còn...
Đề Huề một thân : là chỉ một mình mình gánh Vác.
(2). TÙA HIA :
Âm Tiều Châu của từ Đại Huynh 大兄, có nghĩa là Anh Cả, Anh Hai. Lúc bấy giờ Tùa Hia chỉ khoảng 22, 23 tuổi, nhưng Vì em út 2 bên nội ngoại đều kêu là Tùa Hia, nên người ngoài lầm thưởng Tùa Hia là Tên gọi. Vì Vậy, Con nít thì gọi là CHÚ Tùa Hia, người lớn thì gọi là ANH Tùa Hia, mấy ông già thì gọi là THẰNG Tùa Hia, còn những kẻ có chức có quền lúc bấy giờ, như ông Trung Đội Diễn, Ông Đại Đội Sáu thì khi nói chuyện cứ Ê Tùa Hia là lịch sự lắm rồi !
(3). Quảng Trừng : Tỉnh Quảng Đông, huyện Trừng Hải bên Trung Quốc.
(4). Ba Năm Góp Vốn...: Nhà nghèo, nên khi Vừa tốt nghiệp Tiểu học phải đi ở đợ 3 năm cho Chành lúa Hưng Phát, lấy tiền làm Vốn cho ba má đi sang lúa kiếm lời mà sống.
(5). Nhà Nghèo Được Dịp...: Vì Cậu chủ là bạn học cũ, lại rất thích âm nhạc, nên dạy cho cách sử dụng tất cả các loại nhạc khí, để cùng hòa tấu cho Vui. Trong Chành lúa lại có 2 phòng VIP : Một là Phòng Kế Toán, Một là Phòng Bài Bạc để các chủ cả sát phạt lẫn nhau. Vì ở đợ, nên phải phục Vụ cả 2 phòng, sành Và giỏi cả 2 thứ, lại phải Xuống bếp phụ bếp, nên lại giỏi cả nấu ăn.
(6). Gả liền cháu gái...: Bà Chủ rất thương người tài giỏi, nhưng Vì không có con gái, nên mới bắt cháu gái gọi bằng cô gả cho làm Vợ.
(7). Tằng Khạo : Tiếng Tiều Châu, có nghĩa là Xếp, là Quản lý, Quản đốc.
(8). Bàn Đề, Ra Thai : Có Hoa tay khéo, Viết chữ Hoa Và chữ Việt rất đẹp, nên Lưc lượng Hòa Hảo giao cho trách nhiệm Viết Vẽ và in thai đề 36 mỗi ngày.
(9). Hoa Đèo, Hủ Chì : Từ chuên môn của nghề nấu rượu cổ điển và các loại rượu thuốc làm lậu lúc bấy giờ như : Hổ cốt, Áp sanh, Mai Quế lộ....
(10). Cân Than...: Làm Tài Phú Cân Than cho Công Ty Than Đước Hậu Giang của bà Ngô Đình Nhu lúc bấy giờ, phải Xuất tỉnh đến tận Xứ Năm Căn, Cà Mau.
(11). Đuổi Nhà...: Từ Ba Láng dời Xuống Cầu Bà Cai, bị ông Quận Trưởng tên Lẻ đuổi nhà, nên lại dọn Xuống chợ Cái Răng, ở phía sau Lâm Chi Phát.
(12). Xây Lầu Quê Ngoại : Thập niên 1960- 1970, nổi tiếng là Tài Phú giỏi nhất Cái Răng, mỗi năm được Chủ chia cho 5% huê hồng, nên Về quê Vợ ở Ba Láng cất cái nhà lầu đầu tiên của Xóm nầy, làm mọi người đều trầm trồ khen ngợi.
(13). Đề Huề : Ở đây có nghĩa là Dắt díu nhau mà Về.
(14). Tiểu Phú Do Cần : Thành ngữ Việt Nam : " Đại phú do Thiên, Tiểu phú do cần ". Có nghĩa : Làm giàu lớn là do số Trời cho, còn làm giàu nhỏ là do biết siêng năng, cần kiệm .