TẠ TRIỆU CHIẾT 謝肇淛(1567-1624)tự là Tại Hàng, người Trường Lạc tỉnh Phước Kiến. Đậu Tiến Sĩ khoa Nhâm Thìn, tức năm Vạn Lịch thứ 20 ( 1592 ). Làm Thôi quan ở Hồ Châu, Đông Xương, Chủ sự Hình bộ ở Nam Kinh, Binh Bộ Lang Trung, Công Bộ Đồn Điền. Thiên Khải nguyên niên nhậm chức Án Sát Sứ Quãng Tây, sau thăng Bố Chánh Sứ. Ông là nhà văn nhà thơ nổi tiếng của triều Minh. Hiện mộ phần của ông còn ở tỉnh Phước Kiến, thuộc đơn vị Bảo tồn di tích Văn hoá Lịch sử Tỉnh.
Sau đây là 2 bài Cung Oán Ngũ ngôn Tứ tuyệt của ông.
1.
XUÂN OÁN
長信多春草, Trường Tín đa xuân thảo,
愁中次第生. Sầu trung thứ đệ sinh.
君王行不到, Quân vương hành bất đáo,
漸與玉階平. Tiệm dữ ngọc giai bình.
謝肇淛 Tạ Triệu Chiết
CHÚ THÍCH :
Chiết 淛 : là một dị bản của chữ 浙 Chiết. Chữ Chiết 淛 nầy hay bị đọc nhầm thành chữ CHẾ 制, nên tên TẠ TRIỆU CHIẾT hay bị đọc nhầm thành TẠ TRIỆN CHẾ lắm !
Thứ Đệ : là Lần Lượt, hết lớp nầy tới lớp khác.
Tiệm : là Dần Dà, là Dần dần, Lần lần.
Ngọc Giai : là Thềm ngọc, chỉ cái thềm phòng của các bà các cô ở. Mặt thì Mặt Ngọc, gót thì Gót Ngọc, Tay thì Tay Ngọc ( Tay Ngọc bên bếp hồng ), Thân Mình thì là Mình Ngọc, còn ăn nói thì Hoa Cười Ngọc Thốt, cho nên cả con người thì gọi là NGƯỜI NGỌC !
Có đàn ông Tây phương nào " ga-lăng " bằng các thư sinh châu Á cuả ta ngày xưa đâu ?!
NGHĨA BÀI THƠ :
NỖI HỜN OÁN TRONG MÙA XUÂN
Quanh cung Trường Tín mọc đầy cả cỏ xuân, trong nỗi sầu của nàng cung nữ cỏ xuân cứ lần lượt mọc thêm mãi, và vì quân vương đi không đến nơi nầy, cho nên cỏ đã dần dà mọc cao lên bằng cả thềm ngọc rồi !
Cỏ là sức sống của mùa xuân, của tuổi thanh xuân, lẽ ra phải sống vui và phải vươn lên thật mạnh mẽ, nhưng trong nỗi buồn của người cung nữ trong lãnh cung thì cỏ lại mọc tràn lan, hết lớp nầy đến lớp khác một cách hoang vu. Vì ...quân vương đi không đến nơi nầy, cho nên cỏ đã lên cao đến thềm ngọc rồi, Cỏ càng cao thì nỗi sầu của nàng cũng cao như cỏ dại, và chỉ có cỏ mới hiểu được mối sầu của nàng như thế nào mà thôi ! Cũng là cỏ, Cụ Nguyễn Du đã mượn để tả cảnh phòng không của cô Kiều lúc Từ Hải đi tìm công danh :
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
CỎ CAO HƠN THƯỚC liễu gầy vài phân.
DIỄN NÔM :
XUÂN OÁN
Cỏ xuân đầy Trường Tín,
Trong sầu lại mọc thêm.
Quân vương đi chẳng đến,
Đã vượt cao ngang thềm !
Lục bát :
Phủ đầy Trường Tín cỏ xuân,
Sầu nên lại mọc quanh cung hàng hàng.
Quân vương chẳng đoái chẳng màng,
Quanh thềm cỏ đã vượt tràn lối đi !
2.
秋怨 THU OÁN
明月憐團扇, Minh nguyệt lân đoàn phiến,
西風怯綺羅。 Tây phong khiếp ỷ la.
低垂雲母帳, Đê thuỳ vân mẫu trướng,
不忍見銀河。 Bất nhẫn kiến ngân hà.
Tây Phong : là Gió thổi từ hướng Tây tới, là gió của mùa Thu, lạnh se sắt,còn gọi là Kim phong : Gió Vàng, như Ôn Như Hầu đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc :
Trải vách quế GIÓ VÀNG hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng !
Trong dân gian thì có câu Ca Dao của vùng Nam Bộ như sau :
Anh về để áo lại đây,
Để khuya em đắp GIÓ TÂY lạnh lùng !
Lân : là Thương xót. Khiếp : là Sợ hãi.
Ỷ La : là Miếng Vải The đẹp. Cũng như chữ Đoàn Phiến, Ở đây, đều chỉ Cây Quạt bọc bằng vải the vải lụa mà các bà các cô ngày xưa hay cầm trên tay để quạt cho mát.
Đê Thùy : Đê là Thấp, Thùy là Rũ xuống. Nên ...
Đê Thùy : là Buông rũ xuống.
Vân Mẫu : là một loại đá quý có vân như cẩm thạch.
Vân Mẫu Trướng : là Bức Trướng, bức rèm có cẩn đá Vân Mẫu cho đẹp.
Bất Nhẫn : là Không Nhẫn tâm, ở đây có nghĩa là : Không Đành Lòng, Không Muốn.
NGHĨA BÀI THƠ :
NỖI OÁN HẬN TRONG MÙA THU
Trăng thu mát mẻ như cũng thương xót cho cây quạt tròn có hình dáng giống mình, ( nhưng đã trở nên vô dụng vào mùa thu.) Cũng như gió Tây se sắt thổi làm cho những cây quạt bọc bằng lụa là đẹp đẽ cảm thấy sợ hãi vì sẽ không còn tác dụng nữa. Nên chi đành buông thấp rèm Vân Mẫu xuống mà không muốn nhìn thấy Ngân Hà ( hoặc biểu tượng nào của mùa thu ) nữa cả !
Trăng thu, gió thu, sông Ngân Hà tất cả những cái biểu tượng của mùa thu làm vô hiệu hóa cây quạt cầm trên tay của nàng cung nữ, vũ khí duy nhất để quạt mát lấy lòng vua bị mùa thu làm cho héo hắt, tắt lịm luôn hy vọng theo gió thu !
Đọc bài này làm ta nhớ lại 2 câu trong bài Trường Tín Cung của Lưu Phương Bình đời Đường là :
Thu phong năng tái nhiệt,
Đoàn phiến bất từ lao !
( Gió thu ví có thể nóng lại được, thì cây đoàn phiến nầy sẽ chẳng từ lao nhọc mà quạt mát cho vua ngay ! ).
DIỄN NÔM :
THU OÁN
Trăng sáng thương quạt lụa,
Gió Tây sợ quạt là.
Rũ bức rèm Vân Mẫu,
Chẳng muốn thấy Ngân Hà !
Lục bát :
Trăng thu thương cánh quạt tròn,
Gió thu hiu hắt quạt còn sợ hơn.
Buông rèm Vân Mẫu tủi hờn,
Lòng không muốn ngắm sầu hơn Ngân Hà !