1. Bản chữ Hán Cổ của bài thơ :
送靈澈上人還越中 TỐNG LINH TRIỆT THƯỢNG NHÂN
HOÀN VIỆT TRUNG
禪客無心杖錫還, Thiền khách vô tâm trượng tích hoàn,
沃洲深處草堂閑。 Ốc Châu thâm xứ thảo đường nhàn.
身隨敝屨經殘雪, Thân tùy tệ lý kinh tàn tuyết,
手綻寒衣入舊山。 Thủ trán hàn y nhập cựu san.
獨向青溪依樹下, Độc hướng thanh khê y thọ hạ.
空留白日在人間。 Không lưu bạch nhật tại nhân gian,
那堪別後長相憶, Nả kham biệt hậu trường tương ức,
雲木蒼蒼但閉關。 Vân mộc thương thương đản bế quan.
劉長卿. Lưu Trường Khanh
CHÚ THÍCH :
THƯỢNG NHÂN : là Hòa thượng, là Thầy Chùa.
ỐC CHÂU : Tên núi ở phía đông huyện Tân Xương, tỉnh Chiết Giang. Tương truyền đây là nơi ẩn cư của các cao tăng đời Tấn.
BẾ QUAN : Đóng cửa lại không tiếp khách. Trong Phật giáo, BẾ QUAN còn có nghĩa là Đóng cửa phòng lại để tu luyện( thường là 7 bữa ) Một mình ở trong phòng để tu tâm dưỡng tánh, ngưng mọi vọng tưởng để giác ngộ đạo pháp.
NGHĨA BÀI THƠ :
Khách thiền chống chiếc gậy bạc đi về núi Ốc Châu nơi gian nhà cỏ mà lòng không chút vướng bận gì cả. Thân mình cứ theo đôi giày cỏ rách đạp trên tuyết đã tan, tay thì ấp lấy chiếc áo lạnh cũ kỹ mà đi về núi cũ. Một mình ẩn cư bên dòng khe xanh dưới tàn cây mát, bỏ mặc mặt trời đang chói chang của nhân gian lại bên ngoài, và mặc cho sau khi chia tay bè bạn có dai dẵng nhớ nhau thì vẫn cứ bế quan nhập định dưới cảnh rừng xanh mây trắng.
4. DIỄN NÔM :
Khách thiền gậy bạc ý chưa về,
Nhà cỏ Ốc Châu vắng tứ bề.
Giày cũ thân còn lê tuyết phủ,
Áo tơi tay giữ vượt sơn khê.
Hướng về khe vắng bên cây núi,
Để lại ngày dài trên cõi mê.
Nào xá chia ly còn nhớ tiếc,
Núi mây xanh ngắt cõi đi về.