Tương truyền, khi làm xong 2 câu đầu của bài " Phong Kiều Dạ Bạc " nầy là :
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên 月落乌啼霜满天
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên 江枫魚火對愁眠
… thì nhà thơ Trương Kế của ta bí lối, bí vần, bí xà lù...không biết phải làm tiếp 2 câu kế như thế nào, nên cứ trằn trọc mãi, không ngủ được. Thời may, từ đâu vọng đến tiếng chuông chùa trên núi Hàn San gần đấy, làm cho ông xúc cảnh sinh tình mà hạ nốt 2 câu chót rất bất hủ là :
Cô Tô thành ngoại, Hàn San tự 姑蘇城外寒山寺
Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền. 夜半锺聲到客船
Tiếng chuông vừa khuấy động không gian tĩnh mịch của đêm thanh, vừa như cảm thông với người lữ thứ cô đơn mà vọng đến để an ủi, vỗ về....Nhưng, tại sao giữa đêm khuya ( dạ bán : là nửa đêm ) lại có tiếng chuông chùa vọng đến thế kia ? Thường thì rựng sáng chùa mới có hồi chuông công phu, sao chùa Hàn San lại công phu giữa đêm.
À, thì ra lại có một câu chuyện giai thoại văn chương như thế nầy :
Tương truyền, đêm hôm ấy, khoảng mùng 3, mùng 4 gì đó, nên vành trăng non đầu tháng treo lơ lửng trên không, khiến cho Sư Cụ trong chùa ngắm trăng rồi xúc động mà ngâm thành 2 câu thơ sau :
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn 一片玉弧分两段
Bán trầm thủy để, bán phù không 半沉水底半浮空
Có nghĩa :
Một cây cung bằng ngọc, được chia ra làm 2 đoạn. Một nửa chìm dưới đáy nước, một nửa nổi ở trên không trung . Ý thơ hay quá, vì 2 mảnh trăng lưỡi liềm, một trên trời, một dưới nước, nếu ráp lại với nhau thì như là một vành cung bằng ngọc.
Nhưng, khổ nỗi, là thầy cũng không tìm ra được 2 câu nối để hoàn tất bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt. Nên chi, thầy không ngủ được, thao thức mãi mới bật dậy đi quanh chùa, tình cờ thầy gặp một chú Tiểu cũng đang thơ thẩn cạnh hồ sen. Sau phút ngạc nhiên, hỏi ra, thì ra chú Tiểu ta cũng thấy trăng non mà xúc động nên làm ra 2 câu thơ, và cũng không tìm được 2 câu nối, nên cũng không ngủ được mà còn thơ thẩn ở đây. Quả là sự ngẫu nhiên trùng hợp. Sư Cụ mới bảo chú Tiểu đọc ra 2 câu thơ đó xem sao.
Chú Tiểu bèn đọc là :
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung, 初三初四月朦朧
Bán tự ngân câu, bán tự cung 半似银钩半似弓
Có nghĩa :
Mùng 3 mùng 4 ánh trăng còn mông lung mờ ảo, Nửa giống như là cái móc bạc, nửa giống như là cánh cung...
…. thì cũng vừa vặn ráp với 2 câu của Sư Cụ thành một bài Tứ Tuyệt như sau :
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung, 初三初四月朦朧
Bán tự ngân câu, bán tự cung 半似银钩半似弓
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn, 一片玉弧分两段
Bán trầm thủy để, bán phù không. 半沉水底半浮空
Hay quá, lại vừa đúng niêm luật, lại vừa đúng vận, thành một bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt hoàn bích. Sư Cụ mới bảo với chú Tiểu là : Không biết sau nầy thầy trò ta có cùng tu thành chánh quả hay không, chứ hiện nay thì thầy trò ta đã cùng gặp nhau trong văn chương rồi, âu đây cũng là ý của Phật Tổ chứng chiếu, vậy thì con hãy vào nấu nước pha trà, để thầy trò ta cùng tạ ơn Phật Tổ. Chú Tiểu vâng lời thầy, nên sau khi thắp nhang cúng Phật, mới có tiếng chuông chùa nửa đêm vọng xuống thuyền của Trương Kế, để nhà thơ hoàn tất bài thơ bất hủ " Phong Kiều Dạ Bạc " là thế ! ( 楓橋夜泊 Đêm ghé thuyền ở bến Phong Kiều ).
Sau đây là bài thơ diễn nôm của nhà thơ Tản Đà như sau :
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Và sau đây là bài diễn nôm của ĐCĐ :
Trăng tà lạnh, tiếng quạ kêu sương xuống
Giấc sầu miên, sông vắng, đối lửa chài
Chùa Hàn San ngoại thành Cô Tô ấy
Nửa đêm buồn, chuông vẳng đến thuyền ai !
Giai thoại trên đây có thể do người đời sau đặt ra để tô điểm thêm cho bài thơ càng huyền hoặc và hấp dẫn hơn, đồng thời cũng giải thích cho việc tại sao lúc nửa đêm lại có tiếng chuông chùa công phu bất chợt, nhưng dù sao thì chúng ta cũng được thưởng thức thêm một bài thơ hay nữa, cũng tốt thôi....