Lý Quần Ngọc ( khoảng 813-860 ). Thi nhân đời Đường. Tự Văn Sơn. Người đất Phong Châu ( là Phong huyện của tỉnh Hà Nam hiện nay ). Tính tình đạm bạc, từng đi thi Tiến Sĩ một lần, không đậu, bèn bỏ luôn. Khi Bùi Hưu làm Quan Sát Sứ đất Hồ Nam, rất coi trọng ông ta, từng tiến cử với triều đình. Năm Đại Trung thứ tám( 854 ), Quần Ngọc đến tràng an,dâng lên Vua 300 bài thơ. Lúc đó Bùi Hưu đang là Tể Tướng, mới tiến cử ông nhậm chức Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang. Nhưng chẳng bao lâu, ông lại từ quan về quê.
半醉 Bán Túy
處俗常如病, Xử tục thường như bệnh,
看花亦似秋。 Khán hoa diệc tự thu.
若無時復酒, Nhược vô thời phục tửu,
寧遣鎮長愁。 Ninh khiển trấn trường sầu.
漸覺身非我, Tiệm giác thân phi ngã,
都迷蝶與周。 Đô mê điệp dữ Châu
何煩五色藥, Hà phiền ngũ sắc dược,
尊下即丹丘。 Tôn hạ tức đan khâu.
李群玉 Lý Quần Ngọc
Chú thích :
1. Xử 處 :( Động từ ) là giải quyết. Vd : Xử lý, xử trí.
là cách. Vd : Xử thế : là cách ở đời.
là Ở ( trong ). XỬ TỤC : Ở trong cõi trần tục.
Đọc là XỨ( danh từ ), thì có nghĩa là NƠI CHỐN. Vd : Xứ xứ : là Nơi nơi. " Xứ xứ tà dương thảo tự đài ".
2. Nhược 若 : là Nếu, Nếu như. Nhược Vô : là Nếu như không, là cảm thấy trống rổng như không có gi. Cảm thấy chán nản.
3. Ninh 寜(寕): là Chắc, vững. Vd : An Ninh.
Ninh là giới từ thì có nghĩa : Thà , thà rằng , chẳng thà. NINH KHIỂN :
là Thà chịu ( thà tiêu khiển trong việc... )
4. Trấn 鎮 : Danh từ , Trấn là THỊ TRẤN.
Động từ , Trấn là Đè, Nén. Vd : Trấn áp. Trong bài thơ có nghĩa là Chịu đựng.
5. Điệp dữ Châu ( Chu ) : Bướm và Trang Chu : Trang Chu ( Châu ) là Trang Tử, thường nằm mơ thấy mình hóa bướm, dạo chơi cùng khắp. Khi tỉnh dậy còn mơ hồ không rõ là mình hóa ra bướm, hay là bướm hóa ra mình.
6. Ngũ sắc dược : Thuốc 5 màu của các đạo sĩ ngày xưa luyện nên, uống vào để tu thành Tiên.
7. Đan Khâu : là Những đan ( đơn ) dược được luyện thành, uống vào để lên Tiên, cũng như ngũ sắc dược ở trên, samething ,chỉ khác cách nói.
Dịch xuôi :
Ở trong cõi trần tục nầy, thường cảm thấy như là đang bệnh ( xuống tinh thần ). Ngắm hoa cũng không thấy vẻ xuân mà lại buồn như mùa thu. Khi cảm thấy ( tâm hồn ) trống không, thì lại uống rượu. Thà rằng tiêu khiển như thế nầy ( uống rượu ) để nén cơn sầu dài dằng dặc. Dần dần cảm giác thân ta không còn là ta nữa, tất cả đều mơ hồ như bướm với Trang Chu vậy.( Thôi thì ) , cần chi phải làm phiền đến thuốc ngũ sắc,( Ý nói không cần phải có thuốc ngũ sắc ). Dưới chai rượu của ta( tôn hạ ) tức là thuốc đan dược để thành tiên đó !( Ý nói : Uống một bầu rượu vô rồi thì nửa tỉnh nửa say, lâng lâng như lên tiên vậy ! )
Diễn nôm :
DỞ SAY
Cõi tục thường như bệnh
Ngắm hoa cứ ngỡ thu
Khi buồn lại uống rượu
Thà sống mãi với sầu
Ta ngỡ không ta nữa
Cứ tưởng bướm Trang Châu
Chẳng cần đan ngũ sắc
Chỉ thích rượu một bầu !
Đ. C. Đ diễn nôm.