Cuối tuần, chỉnh đốn lại những bài thơ hay để gởi cho các em học sinh Tân Hưng Cái Răng, sẵn gởi đến cho Quý Vị đọc chơi tiêu khiển !
關 山 月 QUAN SAN NGUYỆT
李白 Lý Bạch.
明月出天山, Minh nguyệt xuất Thiên San,
蒼茫雲海間。 Thương mang vân hải gian.
長風幾萬里, Trường phong kỷ vạn lý,
吹度玉門關。 Xuy độ Ngọc Môn Quan.
漢下白登道, Hán hạ Bạch Đăng đạo,
胡窺青海灣。 Hồ khuy Thanh Hải loan.
由來征戰地, Do lai chinh chiến địa,
不見有人還。 Bất kiến hữu nhân hoàn.
戍客望邊色, Thú khách vọng biên sắc,
思歸多苦顏。 Tư quy đa khổ nhan,
高樓當此夜, Cao lâu đương thử dạ,
歎息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn
Chú Thích :
1.「天山」Thiên Sơn,即祁連山,在今甘肅省境內。Tức là Kỳ Liên Sơn, trong tỉnh Cam Túc ngày nay.
2.「白登」Bạch Đăng,山名,在今山西大同東。漢高祖曾被匈奴圍困於此, tên núi, ở phía đông Đại Đồng tỉnh Sơn Tây hiện nay. Xưa Hán Cao Tổ từng bị Hung Nô vây khổn ở đây.
3.「窺」Khuy,窺伺。là dòm ngó.
4. 「青海灣」Thanh Hải loan,即青海湖,在今青海省境內。Tức Hồ Thanh Hải, nằm trong tỉnh Thanh Hải hiện nay.
5.「高樓」Cao Lâu,這裡指征夫住在家中的妻子。Ở đây chỉ người vợ của kẻ chinh phu ở nhà. Một ý nữa : là Cái vọng gác cao của người lính thú.
Nghĩa của Bài thơ :
皎潔的月亮從祁連山升起,輕輕漂浮在迷茫的雲海裏。長風掀起塵沙席捲幾萬里,玉門關早被風沙層層封閉。白登道那裏漢軍旌旗林立,青海灣卻是胡人窺視之地。自古來這征戰廝殺的場所,參戰者從來不見有生還的。守衛邊陲的征夫面對現實,哪個不愁眉苦臉思歸故里?今夜高樓上思夫的妻子們,又該是當窗不眠歎息不已。
Vầng trăng sáng vằng vặc đang mọc lên từ Kỳ Liên Sơn, nhẹ nhàng lẩn khuất trong rừng mây mờ mịt. Gió lốc thổi dài từng cơn suốt mấy vạn dặm, phủ lấp cả Ngọc Môn Quan là ải địa đầu. Cờ xí và Hán binh đóng rợp cả Bạch Đăng đạo, còn binh Hồ thì đang dòm dỏ Thanh Hải Loan. Từ xưa đến nay, những người ra đi chính chiến nơi chiến địa, chẳng thấy có mấy ai được về quê. Những người lính thú đang trấn giữ biên thùy, ai là không mặt ủ mày ê mơ ước ngày được về quê. Đêm nay, những nàng chinh phụ trên lầu cao mong nhớ chồng, chắc cũng đang thở vắn than dài khôn nguôi.
DIỄN NÔM :
TRĂNG LÊN ẢI NÚI.
Trăng lên đỉnh Thiên San,
Bàng bạc núi mây ngàn.
Muôn dặm cơn gió lốc,
Thổi thốc Ngọc Môn Quan.
Hán xuống Bạch Đăng đạo,
Hồ dòm Thanh Hải Loan.
Vì chưng nơi chiến địa,
Có mấy ai khải hoàn ?
Lính thú sầu biên tái,
Mơ về dạ ngổn ngang.
Gác canh cao đêm vắng,
Buông dài tiếng thở than !
Xin được lạm bàn về 2 câu chót của bài thơ là :
高樓當此夜, Cao lâu đương thử dạ,
嘆息未應閒。 Thán tức vị ưng nhàn.
1. Ý thứ nhất :
Cho người lính thú.
Cao lâu là cái Lầu cao, hay nói cho đúng là cái Vọng Gác cao để cho người lính thú gác giặc, nên câu thơ có nghĩa : Trong đêm nay trên vọng gác cao vẳng tiếng thở dài không còn nhàn nhã nữa !
2. Ý thứ hai :
Cho người cô phụ ở nhà.
Câu thơ có nghĩa : Đêm nay, trên lầu cao để ngắm trăng, nàng cô phụ cũng thở dài vì nhớ thương chồng nơi quan ải, chớ không phải ngắm trăng với tâm tình nhàn nhã nữa !
và... Nếu theo ý thứ hai, thì 2 câu dịch cuối sẽ là :
Lầu cao nhìn trăng sáng,
Nàng cô phụ thở than !
Làm ta lại nhớ đến 2 câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc như sau :
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San....
và... lại và...2 câu :
漢下白登道, 胡窺青海灣。
Hán hạ Bạch Đăng Đạo, Hồ Khuy Thanh Hải Loan.
Lại làm cho ta nhớ đến 2 câu :
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Cho thấy là thơ của Thi Tiên có ảnh hưởng rất lớn đến văn học cổ của ta biết bao nhiêu !