欺 人 是 禍 , 饒 人 是 福 。
Khi nhân thị họa, Nhiêu nhân thị phúc.
天 眼 恢 恢 , 報 應 甚 速 。
Thiên nhỡn khôi khôi, Báo ứng thậm tốc.
CHÚ THÍCH :
KHI : Ngoài nghĩa Khinh Khi, Khi Dễ ra,KHI còn có nghĩa là HIẾP ĐÁP, Ăn Hiếp người khác.
NHIÊU : là Nhiêu Dung, Nhiêu Thứ, là Bao Dung Tha Thứ, Xí Xóa, Buông Tha.
NGHĨA CÂU :
Hiếp đáp người khác là gây họa về sau, biết bao dung tha thứ cho người khác là tạo phúc cho tương lai đó.
Con mắt của Trời mặc dù nhìn rất rộng rãi, nhưng sự báo ứng sẽ xảy ra rất nhanh đó nhé !
Đọc câu nầy làm ta nhớ câu :
Thiên võng khôi khôi, 天 網 恢 恢 ,
Sơ nhi bất lậu. 疏 而 不 漏 。
( Lưới Trời lồng lộng, tuy thưa mà không để lọt việc gì cả ! ).
聖 賢 言 語 , 神 欽 鬼 伏 。
Thánh hiền ngôn ngữ, Thần khâm qủy phục.
NGHĨA CÂU :
Lời nói của các bậc Thánh hiền, Quỷ Thần cũng phải khâm phục.
Không nhất thiết phải là lời nói của Thánh hiền, những lời nói đúng đắn, hợp với đạo nghĩa ở đời, hợp với luân thường đạo lý... thì không những thần khâm qủy phục, mà tất cả mọi người đều phải tuân phục mà thôi !
人 各 有 心 , 心 各 有 見 。
Nhân các hữu tâm, Tâm các hữu kiến.
NGHĨA CÂU :
Mỗi người đều có một tấm lòng, mỗi lòng đều có sở kiến riêng của mình.
Không ai bắt ai phải theo ai được cả ! Mỗi người đều có Ý kiến riêng của mình, mỗi người đều có cái nhìn riêng của mình, nên tôn trọng cách nhìn của người khác, không thể áp đặt cái nhìn của mình mà buộc người khác phải ... nhìn theo.
口 說 不 如 身 逢 , 耳 聞 不 如 目 見 。
Khẩu thuyết bất như thân phùng, Nhĩ văn bất như mục kiến.
NGHĨA CÂU :
Chỉ nghe cái miệng của người ta nói thôi thì không bằng đích thân mình găp phải. Tai nghe thì không bằng mắt thấy.
Tam sao thì Thất bản. Chép lại 3 lần thì đã bị sai với bản gốc rồi, huống hồ nghe qua tới 3 cái miệng đồn đoán, thêm thắt đủ điều thì... còn đâu là sự thật của lúc ban đầu nữa !
養 軍 千 日 , 用 在 一 朝 。
Dưỡng quân thiên nhật, dụng tại nhất triêu.
CHÚ THÍCH :
TRIÊU 朝 : Chữ nầy vừa là Danh từ, vừa là Động từ.
* Danh từ : 1. Đọc là TRIÊU thì có nghĩa là BUỔI, là BUỔI SÁNG : như Triêu Mộ là : Sáng Tối.
2. Đọc là TRIỀU thì có nghĩa là Triều Đại, như Đường Triều là : Triều đại nhà Đường.
* Động từ : Triều có nghĩa là Chầu (Vua Chúa, Thần Thánh...) như : Triều Kiến, Triều Bái, Bãi Triều...
NGHĨA CÂU :
Nuôi quân ngàn ngày, dùng trong một buổi.
Nhưng nếu không nuôi quân một ngàn ngày, thì khi có việc, lấy đâu ra người để dùng trong một buổi đây ?!
國 清 才 子 貴 , 家 富 小 兒 驕 。
Quốc thanh tài tử quí, Gia phú tiểu nhi kiêu.
NGHĨA CÂU :
Nước thanh bình thì tài tử mới được quí trọng. Nhà giàu có thì trẻ nhỏ đâm ra kiêu căng.
Thực tế vô cùng ! Khi đất nước loạn lạc chiến tranh thì người ta chỉ trọng võ tướng, và bận bịu với việc đánh nhau, đối phó với đối phương, chứ đâu có ai chú trọng đến văn học nghệ thuật, cho nên giới tài tử bị lãng quên. Đất nước có thanh bình rồi thì tài tử mới được lên ngôi.
Nhà giàu có, dù có khéo giáo dục cách mấy thì con nít ở trong nhà vẫn tỏ ra kiêu ngạo hơn là con nít bình thường. Tại sao ? Vì vật chất đầy đủ, người hầu kẻ hạ xung quanh cung phụng chăm sóc từng chút một, không tỏ ra kiêu căng mới là lạ !
利 刀 割 體 痕 易 合 , 惡 語 傷 人 恨 不 消 。
Lợi đao cát thể ngân dị hợp, Ác ngữ thương nhân hận bất tiêu.
CHÚ THÍCH :
LỢI : Ngoài nghĩa Lợi Lộc, còn có nghĩa là BÉN. LỢI ĐAO là : Con Dao bén.
NGÂN : là Dấu, Vết, là Cái Thẹo.
NGHĨA CÂU :
Dùng dao bén cắt vào thân thể người ta, tuy chảy máu đau đớn, nhưng vết thương cũng dễ lành lại. Chớ dùng những lời độc ác làm tổn thương người khác trước mặt đông người, thì cái hận thù sẽ không thể tiêu trừ được.
Ông Bà ta dạy : " Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau " mà ! Những lời nói hiểm độc, hạ nhục người khác trước đám đông thì còn ác đức hơn là chém cho họ một dao nữa !
公 道 世 間 唯 白 髮 , 貴 人 頭 上 不 曾 饒 。
Công đạo thế gian duy bạch phát, Quí nhân đầu thượng bất tằng nhiêu.
NGHĨA CÂU :
Cái công đạo, lẽ công bầng trên đời nầy duy chỉ có đầu bạc mà thôi, ngay cả trên đầu những quí nhân hiển đạt nó cũng chưa từng tha thứ cho ai cả !
Đầu bạc : Giai đoạn ai cũng phải kinh qua, chỉ sớm hoặc muộn mà thôi. Đầu bạc còn chỉ thời gian sắp tới, tất yếu và rất công bằng với mọi người bất luận sang hèn quí tiện, nó không từng tha thứ cho người nào cả ! . Ai rồi cũng phải có lúc đầu bạc mà thôi !.
有 錢 堪 出 眾 , 無 衣 懶 出 門 。
Hữu tiền kham xuất chúng, Vô y lãn xuất môn.
CHÚ THÍCH :
KHAM : là Có thể, là Nên, là Được.
LÃN : là Lười Biếng, là Biếng Nhác. Hải Thượng Lãn Ông là chữ LÃN nầy. Ông Tổ thuốc Nam của Việt Nam tự xưng một cách khiêm tốn là : Ông già Lười Biếng ở trên biển.
NGHĨA CÂU :
Có tiền, giàu có thì mới nên đến chỗ đông người, tham gia cộng đồng, hoạt động xã hội.... mới không bị người ta coi rẻ. Không có cái áo coi cho được, tức nghèo khó không có dư tiền rủng rỉnh trong túi, thì cũng lười biếng ra khỏi cửa .