Xin gởi đến Các Vị bài thơ Lư Sơn của Tô Đông Pha
QuênĐi
Khói Lư Sơn sóng Triết Giang dâng
Ân hận vì chưa viếng một lần
Khi đã đến nơi nào khác biệt
Khói Lư Sơn sóng Triết giang dâng.
Quên Đi
Chú Thích:
Núi Lư Sơn hay còn gọi là Lô Sơn là một dãy núi nằm ở phía nam thành phố Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, gần hồ Bà Dương. Rộng 302 km2 Lư Sơn có 99 ngọn núi, trong đó đỉnh cao nhất là Dahanyang với độ cao 1474 m trên mực nước biển. Núi này là một điểm Du lịch quan trọng của Trung Quốc.
Năm 1996, Công viên Quốc gia Lư Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.Năm 2004, công viên được UNESCO công nhận là vườn địa chất (Công viên Địa chất Quốc gia Lư Sơn kỷ Băng Hà ) và được đưa vào danh sách hệ thống các vườn địa chất quốc tế (Hệ thống này có cả thảy 48 vườn, 18 ở Trung Quốc).Núi Lư Sơn nổi tiếng đẹp đã là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Trung Quốc. Điển hình là bài thơ "Lô Sơn" (hay Lư Sơn) của Tô Đông Pha, nhà thơ đời Tống.
Lư Sơn từ xưa đến nay đã thu hút được vô vàn văn nhân mặc khách. Hơn 1000 năm nay, cả thảy đã có hơn 1500 văn nhân mặc khách đến và để lại trên Lư Sơn hơn 16000 bài thơ, từ, ca, phú, ngâm vịnh về Lư Sơn, cùng nhiều bia khắc bằng đá và kim loại, những bài thơ phú này càng khiến Lư Sơn trở nên lừng danh thiên hạ. Hình thế của Lư Sơn rất đặc biệt, núi non sông hồ bao bọc, sương mù và mây che dày đặc, thiên hình vạn trạng thay đổi. Trên núi có trồng trà Vân Vụ nổi tiếng. Nói đến Lư Sơn là nói đến những ngọn thác nước trắng tuôn chảy tuyệt đẹp, trong đó thác núi Khuông Lư được coi là “một trong ba kỳ quan thiên hạ”. Thác núi Hương Lư cũng là một danh thắng .
Trăm nghe không bằng một thấy
Chưa đến thì nôn nao, đến rồi cũng như không, chẳng có gì lạ cả. Chúng ta cùng lắng nghe Đông Pha Cư Sĩ đã diễn tả tâm trạng của mình trước và sau khi viếng cảnh Lư Sơn qua bài thơ sau:
廬山 Lư Sơn
廬山煙鎖浙江潮, Lư Sơn yên toả Triết Giang triều
未到平生恨不消。 Vị đáo bình sinh hận bất tiêu
到得本來無別事, Đáo đắc bản lai vô biệt sự
廬山煙鎖浙江潮 Lư Sơn yên toả Triết Giang triều
苏轼 Tô Thức
Dịch nghĩa: Núi Lư Sơn
Cảnh mây khói lan phủ ở núi Lư Sơn, nước sông Triết Giang dâng lên rút xuống.
Sẽ ân hận nếu trong cuộc sống mà không được đến đó để ngắm cảnh
Nhưng khi được đến nơi ấy như mong ước thì chẳng có gì khác lạ cả.
Cảnh mây khói lan phủ ở núi Lư Sơn, nước sông Triết Giang dâng lên rút xuống.
( Chúng Ta thấy câu thứ 1 và câu thứ 4 hoàn toàn giống nhau. Nhưng Quên Đi cho rằng ý thì khác, câu thứ nhất có ý khen , nhưng câu thứ 4 lại thất vọng)
Dịch Thơ: Núi Lư Sơn
1
Khói toả Lư Sơn sóng Triết Giang
Khi chưa đến được tiếc vô vàn
Đến rồi chẳng thấy điều chi lạ
Khói toả Lư Sơn sóng Triết Giang
LƯ SƠN
Khói Lư Sơn ,triều dâng sông Triết ,
Chưa đi ân hận biết dường bao .
Đến rồi khác lạ chi nào ,
Lư Sơn , sông Triết ,triều cao khói mờ .
Mailoc phỏng dịch
CŨNG THẾ THÔI ! (Phỏng ý thơ "Lư Sơn" của Tô Đông Pha)
và các bản dịch của QĐi và MLộc)
Lư Sơn khói tỏa mịt mờ
Triều dâng sông Triết nên thơ vô cùng
Khiến lòng cũng chút bâng khuâng
Muốn đi đến viếng một lần xem sao ??
Kẻo rồi hối tiếc dường bao !
Nhưng khi đến đó ,lòng nao nao buồn !
Có gì khác lạ chi hơn
Triết Giang vẫn sóng,Lư Sơn khói mờ .
SONG QUANG
Chừng Ấy Thôi
Lư Sơn tỏa khói Triết Giang triều
Tìm đến thỏa hoài mộng ấp yêu
Tận trông hư thực nào tha thiết
Cũng Lư Sơn khói Triết Giang triều
Kim Phượng
Đỗ Chiêu Đức tham gia còn trể hơn Kim Phượng nữa, xin được góp vui với các phần sau :
1. Về chữ LƯ :
Ta có mấy chữ vừa đọc là LƯ vừa đọc là LÔ như sau :
*. 盧 LƯ : Họ Lư.
*. 爐,鑪: Có bộ HỎA và bộ KIM một bên, nghĩa là cái Lò.
*. 瀘 LÔ : Có 3 chấm thủy một bên, nghĩa là Con sông LÔ.
*. 籚 LÔ : Có bộ Trúc hoặc bộ Thảo trên đầu là VI LÔ : lau sậy.
*. 廬 LƯ : Là Nhà cất sơ sài. THẢO LƯ : là Nhà cỏ. Đây là chữ LƯ trong bài thơ, do tích cao nhân Khuông Tục đời Châu Võ Vương kết nhà tranh trên núi đó ở mà thành tên LƯ SƠN 廬山.
Bài thơ nầy vốn có tên là QUAN TRIỀU 觀潮, có nghĩa là NHÌN NGẮM THỦY TRIỀU ( dĩ nhiên là nhìn ngắm thủy triều của Lư Sơn ). Nhưng vì tiếng tăm của Lư Sơn qúa lớn át cả thủy triều lên xuống của sông Tiền Đường, nên người đời sau mới thiện tiện đổi tên bài thơ là LƯ SƠN.
Bài thơ có câu đầu và câu cuối đều là :
廬山煙鎖浙江潮, Lư Sơn yên toả Triết Giang triều.
Có nghĩa :
Sương khói luôn khóa kín lấy Lư Sơn huyền bí còn dưới chân núi thì thủy triều của sông Tiền Đường tỉnh Chiết Giang luôn ì ầm lên xuống suốt ngày đêm trông rất đẹp đẽ và hùng vĩ. Nên nếu không đến được để ngắm cảnh đẹp nầy sẽ cảm thấy suốt đời hối tiếc. Thế nhưng, khi đến được và ngắm được rồi thì lại đâm ra thất vọng : Chẳng qua cũng là sương khói của Lư Sơn và sóng của sông Tiền Đường ở tỉnh Chiết Giang mà thôi !
Bài thơ tuy đơn giản, nhưng hàm ý thì lại không đơn giản tí nào. Bỏ qua cái Ý Thiền mà Tô Đông Pha đã bị ảnh hưởng bởi người bạn thân của mình là Phật Ấn Hòa Thượng, ta chỉ xét qua về mặt thế thái nhân tình mà thôi. Con người ta hay ao ước một điều gì đó, khi chưa được, thì cố quyết lòng trăm phương ngàn kế để thực hiện cho được, nếu không đạt được sẽ còn áy náy mãi không yên. Nhưng, đến khi đạt được rồi, đã toại nguyện rồi, thì lại thấy cái mà xưa nay mình ráng cố gắng đạt cho được đó, bây giờ lại trở nên rất tầm thường chẳng có chi đặc biệt nữa !
Tình cảm trai gái cũng vậy, khi chưa đeo đuổi được thì đối tượng là đẹp đẽ nhất, hoàn hảo nhất, tưởng chừng như không có " người ấy " thì cuộc đời nầy không còn đáng sống nữa. Nhưng khi đã đeo đuổi được rồi, đã ở trong vòng tay của mình rồi, thì lại thấy cũng rất tầm thường, không có gì xuất sắc hơn người khác cả !
Vẫn là...
廬山煙鎖浙江潮, Lư Sơn yên toả Triết Giang triều.
...... mà thôi !
Tương truyền, đây là bài kệ mà Đông Pha cư sĩ làm trước lúc lâm chung cho đứa con trai nhỏ của mình khi con sắp đi nhậm chức Thông Phán của Phủ Trung Sơn. Tô đã kết thúc cuộc đời lưu vong của mình bằng ý thiền của bài kệ nầy, sau những năm tháng hăng say với bầu nhiệt huyết đem chí trai để phụng sự cho nhà cho nước, rồi sau những trắc trở của quan trường, chính trường lại bất đắc Chí ... dần dần Tô trở thành một ông lão dửng dưng với cuộc đời, một cư sĩ quán triệt thiền cơ, một lão ông già yếu như ngọn đèn treo trước gió. " Cái đắc thất, thành bại ở đời có được hay không có được thì cũng thế mà thôi !".
Vẫn là...
廬山煙鎖浙江潮, Lư Sơn yên toả Triết Giang triều.
2. Diễn nôm :
Lục bát :
Lư Sơn khói sóng mịt mờ,
Chưa đi lòng cứ lửng lờ không yên.
Đi rồi thì sẽ thấy liền,
Lư Sơn khói sóng mịt miền Chiết Giang.
Đỗ Chiêu Đức.
3. Liên Hệ :
Bài thơ nầy làm ta nhớ đến bài thơ Vịnh ĐỒ SƠN của nhà thơ Bút Tre như sau :
Chưa đi chưa biết Đồ Sơn,
Đi rồi mới biết chẳng hơn đồ nhà,
Đồ nhà tuy có hơi già,
Nhưng là đồ thật chẳng là Đồ Sơn !