1. TƯ QUY của VƯƠNG BỘT.
VƯƠNG BỘT王勃 ( 650-676 ), tự là Tử An. Người đất Giáng Châu Long Môn ( thụộc Hà Tân Sơn Tây hiện nay ). Ông nội là Vương Thông, hiệu là Văn Trung Tử, học giả nổi tiếng cuối đời nhà Tùy. Cha là Vương Phước Chỉ, giữ chức Thái Thường Bác Sĩ, Ung Châu Tư Công đời Đường.
VƯƠNG BỘT cùng với Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương văn tài thi tài ngang nhau, người đời xưng là " Sơ Đường Tứ Kiệt ". Bột đứng đầu Tứ Kiệt, nổi tiếng bất hủ với bài " Đằng Vương Các Tự 滕王閣序 ", để lại một giai thoại văn chương về câu nói " Thời lai phong tống Đằng Vương Các 時來風送滕王閣 ", và còn để lại rất nhiều ảnh hưởng cho văn học đời sau bằng các thành ngữ còn thông dụng đến hiện nay.
Sau đây là một bài Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt nổi tiếng của ông.
思歸 TƯ QUY
長江悲已滯, Trường Giang bi dĩ trệ,
萬里念將歸。 Vạn lý niệm tương quy.
況屬高風晚, Huống thuộc cao phong vãn,
山山紅葉飛。 Sơn sơn hồng diệp phi.
王勃 Vương Bột
CHÚ THÍCH :
Câu 3 & 4 của bài nầy còn có dị bản là :
Huống PHỤC cao SƠN VIỄN, 況復高山遠,
Sơn sơn HOÀNG diệp phi. 山山黃葉飛。
HUỐNG THUỘC hay HUỐNG PHỤC gì đều có nghĩa là : Hơn nữa, Vã lại...
CAO PHONG VÃN : là Gió thu trên cao thổi vi vút vào buổi chiều tối, còn ...
CAO SƠN VIỄN : là Núi cao chập chùng xa xăm diệu vợi.
BI DĨ TRỆ : là Nỗi sầu cô đọng lại như nước Trường Giang lững lờ ( như không trôi chảy ).
NIỆM TƯƠNG QUY : là Chỉ mới có Ý niệm sẽ quay trở về mà thôi.( Ý nói : Muốn về mà không về được ! )
HỒNG DIỆP hay HOÀNG DIỆP gì cũng đều là lá mùa thu, và cũng đều nên thơ cả ! Có điều, người Việt ta thì hay dùng " Lá Vàng " để chỉ mùa thu, còn người Hoa thì hay dùng " Lá Đỏ ", vì họ có nhiều rừng phong đỏ thắm lúc thu về, còn ta thì lại có :
" Lá VÀNG trước gió sẽ đưa vèo ! "...
hoặc thi vị hơn như Tản Đà :
" Trận gió thu phong cuốn lá VÀNG,
Lá bay hàng xóm lá bay sang....
để rồi...
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng ! "
DIỄN NÔM :
MUỐN VỀ
Trường Giang sầu nước lững,
Muôn dặm muốn về ngang.
Núi cao ngăn quê cũ ,
Non non rụng lá vàng !
Lục bát :
Trường Giang nước đọng lòng sầu,
Xa nhà muôn dặm mấy thâu muốn về.
Núi cao ngăn cách làng quê,
Muôn chiều lá đổ ủ ê lòng sầu !
2. TUYỆT CÚ của ĐỖ PHỦ :
Bài thơ nầy được làm vào cuối xuân năm Quảng Đức thứ 2 đời Đường Đại Tôn ( 764 ), lúc bấy giờ, Thi Thánh Đỗ Phủ đang ở Thành Đô ( Tứ Xuyên ), mặc dù tha hương nhưng cuộc sống đã tạm ổn định, nhớ quê nhưng tâm lý đã khá thoải mái.
絕句 TUYỆT CÚ
江碧鳥逾白, Giang bích thủy du bạch,
山青花欲燃。 Sơn thanh hoa dục nhiên.
今春看又過, Kim xuân khan hựu quá,
何日是歸年. Hà nhật thị qui niên ?!
杜甫 Đỗ Phủ
CHÚ THÍCH :
Bài thơ nầy được Thi Thánh Đỗ Phủ làm vào mùa xuân năm Quảng Đức thứ hai đời Đường Đại Tôn. Lúc nầy ông đang tạm cư ở Thành Đô, cuộc sống tạm ổn định, mặc dù xa quê nhưng trong lòng cũng tạm thoải mái bớt day dứt, nên lời thơ cũng nhẹ nhàng gợi cảm hơn.
BÍCH 碧 : là BIẾC. Ta thường hiểu là XANH thì mới BIẾC. Thật sự BÍCH là chỉ cái sắc ÓNG ÁNH, như Cẩm Thạch " Lên Nước " thì gọi là BÍCH, bất cứ nó ửng lên màu gì đều là BIẾC cả !.
DU 逾 :là Càng hơn, là Vượt quá.
DỤC 欲 :là Muốn, là Giống Như.
NHIÊN 燃 :là Cháy, Ở đây có nghĩa là Rực Rỡ.
QUÁ 過 :là Qua, là Đi Qua.
HÀ 何 :Nghi Vấn Từ, có nghĩa là GÌ, NÀO, SAO... Như : HÀ SỰ là Việc gì ?, HÀ NHÂN là Người Nào?, HÀ CỐ là Cớ Sao ?. Trong câu thơ HÀ NHẬT là Ngày Nào ?
DỊCH NGHĨA :
Nước của dòng sông càng xanh biếc thì những cánh chim bay lượn trên sông càng trắng hơn thêm, núi càng xanh hơn thì muôn hoa càng như rực rở hơn lên như muốn bốc cháy. Trước mắt ta mùa xuân lại sắp đi qua nữa rồi, không biết là đến năm nào mới có được ngày quay trở lại quê hương đây ?!.
DIỄN NÔM :
TUYỆT CÚ
Nước biếc chim càng trắng,
Núi xanh hoa rực hương.
Nay nhìn xuân lại hết,
Biết thuở nào hồi hương ?!
Thất ngôn :
Trắng xóa cánh chim làn nước biếc,
Hoa như rực lửa núi càng xanh.
Mắt trông xuân lại qua lần nữa,
Quê cũ năm nào lại gặp anh ?
Lục bát :
Bản viết tay năm 1972 của ĐCĐ
************************************************************************
3. Ẩm Tửu Khán Mẫu Đơn 飲酒看牡丹
Phong lưu tài tử đa xuân tứ,
Trường đoản Tiêu nương nhất chỉ thư...
Đó là ngày xưa kìa ! Còn bây giờ thì hết rồi ! Tóc đã bạc, mắt đã mờ, lưng đã còng, chân đã mỏi.... " Phong lưu tài tử " đã thành " Đa bệnh lão nhân " rồi ! Cả cỏ cây hoa lá cũng chê già rồi ! Ta hãy cùng đọc bài thơ của Lưu Vũ Tích劉禹錫 sau đây để càng thấm thía hơn với " cái già sồng sộc " đã đến trên đầu....
唐郎中宅与诸公同饮酒看牡丹
Đường Lang Trung trạch dữ Chư Công đồng Ẩm Tửu Khán Mẫu Đơn.
Cái tựa dài sọc nầy còn được đọc tắt là ẨM TỬU KHÁN MẪU ĐƠN mà thôi.
今日花前飲, Kim nhựt hoa tiền ẩm,
甘心醉數杯。 Cam tâm túy sổ bôi.
但愁花有語, Đản sầu hoa hữu ngữ,
不為老人開。 Bất vị lão nhân khai !.
劉禹錫 Lưu Vũ Tích.
Chú Thích :
1. Ẩm : là Uống, khi đứng có một mình không có túc từ theo sau thì là UỐNG RƯỢU, là NHẬU.
2. SỔ 數 : Chữ nầy có 2 cách đọc và 3 nghĩa chính, như sau :
Đọc là Số : là Danh từ có nghĩa là Con Số. Vd : Số Lượng.
Đọc là Sổ : Nếu là Động từ, có nghĩa là Đếm.
Nếu là Tính từ chỉ số lượng ( Adjactif Numero Cardino ) thì có nghĩa là Vài, Một Vài.
Đây là nghĩa trong bài : Cam tâm túy Sổ Bôi. là " Cam lòng uống thêm VÀI LY cho say ".
3. Đản 但: là Liên từ, có nghĩa là Nhưng. Ở đây là Giới từ , có nghĩa là Chỉ, Chỉ...Vì...
" Đản sầu hoa hữu ngữ ", có nghĩa : Chỉ buồn Vì nếu hoa biết nói !
4. VI 爲 Có 2 âm đọc :
Đọc là VI , là Động từ, có nghĩa là Làm, Vd: Thanh tịnh vô Vị
Đọc là VỊ , là Phó từ, có nghĩa là VÌ. Đây là nghĩa trong bài " Bất Vị lão nhân khai ",
có nghĩa : Không Vì người già mà nở !
Dịch nghĩa :
Cùng các bạn già uống rượu ngắm Mẫu đơn ở nhà ông Lang Trung họ Đường.
Hôm nay, chúng ta cùng nhau uống rượu trước hoa, cũng rất cam lòng mà ( vì hoa ) uống thêm vài chén nữa để say cùng hoa. Chỉ cảm thấy buồn vì nếu hoa mà biết nói, sẽ bảo rằng : " Hoa tôi chẳng phải vì các lão già như ông mà nở đâu ! ". Vậy thì hoa nở vì ai đây ?!....
Diễn nôm :
Hôm nay nhậu trước hoa,
Say khướt chẳng sao mà !
Chỉ phiền hoa biết nói :
" Chẳng nở vì ông già ! "
Lục bát :
Trước hoa uống rượu hôm nay,
Cam tâm quá chén có say cũng là
Chỉ buồn hoa biết kêu ca :
" Hoa tôi chẳng phải nở vì già đâu ! "
Bản viết tay của ĐCĐ
4. TĨNH DẠ TƯ của LÝ BẠCH :
Bài thơ TĨNH DẠ TƯ của Thi Tiên LÝ BẠCH với lời lẽ mộc mạc, giản dị, nhưng lại rất thực tế, nhân bản, dễ đi sâu vào lòng những người tha hương cô thân chiếc bóng, lòng nhớ quê luôn canh cánh khôn nguôi !
靜夜思 TĨNH DẠ TƯ
床前明月光, Sàng tiền minh nguyệt quang,
疑是地上霜。 Nghi thị địa thượng sương.
舉頭望明月, Cử đầu vọng minh nguyệt,
低頭思故鄉。 Đê đầu tư cố hương !
李白 LÝ BẠCH
CHÚ THÍCH :
Chữ 靜 được phát bằng 2 âm TỊNH và TĨNH, nhưng nghĩa thì lại như nhau. TĨNH DẠ 靜夜 : là Trong đêm thanh vắng. Đêm vắng lặng.
NGHI 疑 : là Nghi Ngờ. Ở đây có nghĩa là NGỞ là , Tưởng là.
CỬ ĐẦU : là ngước đầu, là ngẩn đầu lên.
ĐÊ ĐẦU : là Cúi đầu xuống.
NGHĨA BÀI THƠ :
NỖI NHỚ NHUNG TRONG ĐÊM VẮNG VẺ
Trước giừơng ta nằm, ánh trăng sáng vằng vặc đang chiếu rọi, ánh trăng huyền ảo mơ màng như có một làn sương mỏng phủ trùm cả đất trời. Trong đêm vắng lặng nầy, ta không sao chợp mắt được. Ngước đầu nhìn lên vầng trăng sáng như thuở nào, nên khi cúi đầu nhìn xuống lại tưởng nhớ đến quê hương !
Tình cảm mộc mạc mà chân thật biết bao, nên chi bài thơ với những từ rất giản dị lại cũng rất dễ đi vào lòng người suốt trên ngàn năm nay !
DIỄN NÔM :
NHỚ QUÊ ĐÊM VẮNG
Trước giường nhìn trăng sáng,
Mông lung ngở sương đêm.
Ngửa trông vầng trăng bạc,
Nhớ quê dạ buồn thêm !
Lục bát :
Trước giường nhìn ánh trăng trong,
Mông lung cứ ngở sương lồng bóng mây.
Ngửa trông trăng sáng đêm nay,
Cúi đầu lòng những ai hoài nhớ quê.
Trước giường nhìn trăng sáng,
Mông lung ngở sương đêm.
Ngửa trông vầng trăng bạc,
Nhớ quê dạ buồn thêm !