TUYẾT DOANH thân mến,
Cảm vì hoàn cảnh đáng thương của em, nên thầy đã xúc động mà làm bài thơ sau đây :
VẪY VÙNG QUYẾT SỐNG
Bạc mệnh, thương thay Ngũ Tuyết Doanh
Cảnh tình bi thảm, kiếp mong manh
Tang thương dồn dập, thân bồ liễu
Dám hỏi cao xanh, há nỡ đành ? !
Những tưởng duyên may, vẹn chữ tòng,
Yên bề gia thất , dạ thong dong,
Nào hay bão tố từ đâu đến
Tàn phá gia cang đến não lòng,
Anh hỡi , sao anh nỡ nhẫn tâm,
Đi tìm duyên mới, mãi sai lầm,
Bỏ mặc vợ con buồn tủi phận,
Tay trắng em sầu, suốt tháng năm.
Nghiệt ngã làm sao, ý cổ nhân,
" Họa vô đơn chí ". Biết bao lần
Bệnh tật dày dò thân liễu yếu,
Như đèn trước gió, mệnh ngàn cân...
Đớn đau thể xác lẫn tâm hồn,
Nước mắt chan hòa, lệ thấm cơm,
Lây lất thân tàn , ai thấu hiểu,
Phạ hoàng hôn đáo , hựu hoàng hôn.
Nhiều đêm thức giấc, dạ ai hoài
Thương con thơ dại, biết nhờ ai ?
Sợ rồi nhắm mắt trong đau xót,
Tội nghiệp con tôi, thân cúc côi...
Dẫu biết không cha mẹ dưỡng nuôi,
Nổi chìm, con vẫn lớn nên người,
Đành sao ? Lòng mẹ dường dao cắt,
Vẫy vùng quyết sống chẳng buông xuôi !
Bao nhiêu lòng mẹ ở trên đời,
Đau xót nào hơn phải cách đôi,
Lực bất tòng tâm, dù gắng gượng,
"Số mạng", đành thôi, phó đất trời.!
Nào ai kéo lại được thời gian,
Hàn gắn cho nhau chút lỡ làng,
Đau khổ lâu dần lòng sỏi đá,
Hết rồi rạo rực lúc xuân sang...
Lắng lòng giây phút trong hoài niệm,
Gia đạo an bình, hỉ mạc ưu,
Mặc ai đen bạc trời soi xét,
Suốt đời em vẫn mãi Doanh Lưu....
Thơ bất tận ngôn, ngôn bất tận ý. Những lời thô thiển của thầy không thể diễn tả được hết những đau khổ và bất hạnh mà em phải hứng chịu. Nhưng cũng xin thân ái tặng cho em với tất cả sự chân thành và cảm thông của một người thầy....
T. Đức.