UNG ĐÀO 雍陶(805—?), tự là Quốc Quân, người đất Bì Đô, đậu Tiến Sĩ năm Đại Hòa. Ông từng giữ các chức vụ Thị Ngự Sử, Quốc Tử Mao Thi Bác Sĩ, Giản Châu Thứ Sử... Ông là bạn thơ của Trương Tịch, Vương Kiến, Giả Đảo ... thuộc phái Giang Hồ Quái Đản. Sống dưới đời Vãn Đường khi vận nước đã suy vi, xã hội ngày một xuống dốc, khi đi dạo đến bên cầu Thiên Tân, nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát của cung điện ngày xưa, xúc cảnh sanh tình, nên ông đã rất cảm khái mà làm bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt bất hủ nầy.
天津橋春望 THIÊN TÂN KIỀU XUÂN VỌNG
津橋春水浸紅霞, Tân kiều xuân thuỷ tẩm hồng hà,
煙柳風絲拂岸斜。 Yên liễu phong ty phất ngạn tà.
翠輦不來金殿閉, Thuý liễn bất lai kim điện bế,
宮鶯銜出上陽花。 Cung oanh hàm xuất Thượng Dương hoa.
雍陶 Ung Đào
CHÚ THÍCH :
THIÊN TÂN KIỀU 天津橋 : Cây cầu bắt ngang giòng Lạc Thuỷ từ đời Tuỳ Dương Đế, ở phía nam của thành Lạc Dương, kinh đô trước đây của nhà Đường, thường được gọi là Đông Đô.
TẨM : là Ngâm Nước, là Chìm trong nước.
HỒNG HÀ : là Ráng màu đỏ. Ở đây chỉ Ráng Chiều.
PHẤT 拂 : Có bộ Thủ là Tay bên trái. Có nghĩa là PHỦI, như Phất Trần là Phủi bụi, nghiã phát sinh là Phe Phẩy, Đung Đưa.
THUÝ LIỄN : là Xe của Vua đi lại trong cung do dê kéo.
HÀM : là Ngậm, ở đây nghĩa là THA.
THƯỢNG DƯƠNG CUNG 上陽宮 : Là một trong những hành cung lớn đời Đường, nằm ở tây nam thành Lạc Dương, do Đường Cao Tôn Lý Trị xây dựng vào năm Càn Phong thứ 2 ( 667 ) . Lúc bấy giờ Lạc Dương là Đông Đô, vua ngự và nghe việc triều chính ở đây. Năm 705, khi bị Đường Trung Tôn ép phải thoái vị, Võ Tắc Thiên cũng ở cung này cho đến chết. Đường Huyền Tôn cũng từng làm yến tiệc lớn ở trong cung nầy. Nhưng sau loạn An Lộc Sơn ( 755-763 ), Thượng Dương Cung bị tàn phá nghiêm trọng, về sau dần dà hoang phế, đến đời Đường Đức Tôn thì bỏ phế hẳn. UNG ĐÀO sanh năm 805, nên khi đi dạo đến đây thì Thượng Dương Cung đã bị bỏ phế lâu rồi !
CHÚ THÍCH :
THIÊN TÂN KIỀU 天津橋 : Cây cầu bắt ngang giòng Lạc Thuỷ từ đời Tuỳ Dương Đế, ở phía nam của thành Lạc Dương, kinh đô trước đây của nhà Đường, thường được gọi là Đông Đô.
TẨM : là Ngâm Nước, là Chìm trong nước.
HỒNG HÀ : là Ráng màu đỏ. Ở đây chỉ Ráng Chiều.
PHẤT 拂 : Có bộ Thủ là Tay bên trái. Có nghĩa là PHỦI, như Phất Trần là Phủi bụi, nghiã phát sinh là Phe Phẩy, Đung Đưa.
THUÝ LIỄN : là Xe của Vua đi lại trong cung do dê kéo.
HÀM : là Ngậm, ở đây nghĩa là THA.
THƯỢNG DƯƠNG CUNG 上陽宮 : Là một trong những hành cung lớn đời Đường, nằm ở tây nam thành Lạc Dương, do Đường Cao Tôn Lý Trị xây dựng vào năm Càn Phong thứ 2 ( 667 ) . Lúc bấy giờ Lạc Dương là Đông Đô, vua ngự và nghe việc triều chính ở đây. Năm 705, khi bị Đường Trung Tôn ép phải thoái vị, Võ Tắc Thiên cũng ở cung này cho đến chết. Đường Huyền Tôn cũng từng làm yến tiệc lớn ở trong cung nầy. Nhưng sau loạn An Lộc Sơn ( 755-763 ), Thượng Dương Cung bị tàn phá nghiêm trọng, về sau dần dà hoang phế, đến đời Đường Đức Tôn thì bỏ phế hẳn. UNG ĐÀO sanh năm 805, nên khi đi dạo đến đây thì Thượng Dương Cung đã bị bỏ phế lâu rồi !
Một điều thật thú vị là ....
Bài thơ nầy thường " bị " hiểu lầm là một bài thơ CUNG OÁN với cách giải thích như sau :
Cảnh xuân đẹp bên cầu Thiên Tân với ráng chiều đỏ thắm, với liễu rũ như tơ ở hai bên bờ, làm cho nàng cung nữ chợt động tình xuân, nhưng xe vua không tới và điện vàng thì luôn khóa kín, khiến nàng càng tủi phận mình hơn khi thấy chim oanh tha một cánh hoa ra khỏi Thượng Dương Cung. Hoa còn được chim tha ra ngoài chớ thân phận của mình biết ngày nào mới được giải thoát cho đây ?!
Qủa là một sự hiểu lầm đầy thi vị !!!...
DIỄN NÔM :
NGẮM XUÂN BÊN CẦU THIÊN TÂN
Thiên Tân bóng nước ráng in hồng,
Tơ liễu mơ màng bên bến sông.
Chẳng thấy xe vua cung khóa kín,
Ngậm hoa oanh nọ vượt tường đông !
Lục bát :
Nước xuân in bóng ráng chiều,
Bên cầu tơ liễu hiu hiu gió lùa !
Điện vàng khóa, vắng xe vua,
Thượng Dương hoa được oanh vừa tha ra !
Ta vừa đọc qua bài Thiên Tân Kiều Xuân Vọng của Ung Đào, một bài thơ hoài cổ cảm khái trước tang thương biến đổi, vật đổi sao dời mà làm nên, nhưng lại " bị " hiểu lầm là một bài thơ CUNG OÁN, còn bài thơ Thu Tịch của Đỗ Mục là một bài thơ CUNG OÁN thì lại rất ít người phát hiện ra cái OÁN của nó. Nên tôi mới đề tựa cho bài nầy là : KHÔNG OÁN MÀ OÁN, OÁN MÀ KHÔNG OÁN ! Chuyện văn chương lắm lúc oái oăm, lắc léo mà lại thú vị vô cùng !
Mời tất cả cùng đọc lại cả 2 bài thơ, so sánh nghiền ngẫm để cảm nhận cái hay ho sâu sắc mà lại rất nhẹ nhàng, thi vị của văn thơ !....