Haiku Nhật về Thu

(tranh Nguyễn vạn An)

Tôi biết thơ haiku tiếng Nhật có lệ luật chặt chẽ, nhưng chỉ có thể theo khi thơ làm bằng tiếng Nhật.

Người Pháp rất mê thơ haiku, họ dịch nhiều thơ haiku tiếng Nhật sang tiếng Pháp. Tôi biết họ cố dịch cho sát nghĩa và sao cho thật ngắn. Trên mạng có nhiều bài dịch, người này cóp của người kia thành ra không thể biết tác giả các bài dịch là ai. Hôm nay tôi chọn môt số bài tiếng Pháp có ghi rõ tên tác giả người Nhật, rồi ráng dịch sang tiếng Việt để các bạn đọc cho vui.

Bài nào cũng ngắn, nhẹ nhàng thôi, đôi khi có những ý thơ độc đáo thú vị.

Thân mến,

NV An

Dans la rosée du matin

Maculé de boue

Un melon frais.

Matsuo Bashõ (1644-1695)

De chaque objet que l’on pose

Il naît quelque chose

Qui ressemble à l’automne.

Aratika Moritake (1452-1549)

Pourquoi tout le monde fait

La sieste ?

Lune d’automne.

Moppo Tomita (1897-1923)

L’automne est arrivé

venant visiter mon oreille

un oreiller de vent

Matsuo Bashõ ( 1644-1695 )

Du chagrin plein la gorge

Je fredonne soudain

Soir d’automne.

Kaneko Tota ( 1897 )

Jour pluvieux

le monde automnal

d’une ville frontière

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Au bord de mourir

Plus que jamais bruyante

La cigale d’automne.

Masaoka Shiki (1866-1909 )

la voix des roseaux

bruit comme le vent d’automne

mimiques

Matsuo Bashõ ( 1644-1695 )

Le ciel d’automne

Des milliers de moineaux –

Le bruit de leurs ailes.

Yotsuya Ryu (1758)

Je sucerai ton beau grand oeil.

Automne, saison des rosées.

Kawahigashi Hekigodo (1873-1937)

Sur une branche nue

un corbeau est descendu

le soir d’automne

Matsuo Bashõ (1644-1695)

des lettres, oui,

pas des feuilles colorées d’automne ratissées

– brûlées après lecture

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Est-ce une araignée

qui pleure

le vent d’automne

Matsuo Bashõ (1644-1695)

L’automne se termine

Qui pourrait comprendre

Ma mélancolie.

Yotsuya Ryu (1758)

Début de l’automne

La mer et les champs

Du même vert.

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Début de l’été

Grain de sable dans une algue

Du petit déjeuner.

Kaneko Tota (1897)

Dans une humble chaumière

les feuilles de thé ratissées

après l’orage

Matsuo Bashõ (1644-1695)

L’automne est arrivé

aimant sa femme avec les étoiles

sur une peau de daim

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Le vent d’automne.

Deux assiettes

Dont les motifs diffèrent.

Kuroyanagi Shoha (1727-1771)

Vers les eaux d’automne

Du coeur du feu si rouge

La fumée s’envole.

Mukai Kyorai (1651-1704)

le miroir de la lune

vu(e) une nuit parfumée d’automne –

Nouvel An pour les yeux

Matsuo Bashõ (1644-1695)

la voix des roseaux

bruit comme le vent d’automne

transféré(e) d’une autre bouche

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Seul

Prenant mon repas

Le vent d’automne.

Kobayashi Issa (1763-1828)

D’après moi

L’au-delà ressemble à ça –

Soir d’automne.

Matsuo Bashõ (1644-1695)

gel flétri

les fleurs des champs encore en fleur

ont l’air déprimé -

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Hortensias

Elle a choisi le bleu

La pluie d’automne.

Masaoka Shiki (1866-1909)

Un mot de lui

Un mot de moi

L’automne mûrit, je crois.

Aratika Moritake (1452-1549)

Verse l’averse d’automne

Je ne suis

Pas encore mort !

Taneda Santoka (1882-1939)

Montrant leur envers

Puis leur endroit

Les feuilles dispersées par le vent d’automne.

Yotsuya Ryu (1758)

Trong sương mai

Nhòe bùn

Có trái dưa gang tươi

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Từ vật nào đặt lên

Cũng thấy tiết ra

Một chút gì thu

Aratika Moritake (1452-1549)

Sao ai cũng

Ngủ trưa vậy ?

Trăng thu

Moppo Tomita (1897-1923)

Thu đến rồi

đến thăm tai tôi

một cái gối gió

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Họng chĩu buồn đầy

Bỗng nhè nhẹ ngâm

Hoàng hôn thu

Kaneko Tota (1897)

Ngày mưa hoài

Đời vào thu

của một tỉnh miền biên giới

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Bên bờ sống chết

Hơn bao giờ hết

Con dế thu kêu hét râm ran

Masaoka Shiki (1866-1909 )

cụm trúc reo

như sao chép

tiếng gió thu

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Trời thu

Cả ngàn con sẻ

Tiếng cánh xào xạt

Yotsuya Ryu (1758)

Tôi muốn mút mắt em to xinh

Thu ơi, mùa của những làn sương

Kawahigashi Hekigodo (1873-1937)

Trên cành trơ lá

Con quạ xà xuống

Hoàng hôn thu

Matsuo Bashõ (1644-1695)

những lá thư ư, xin vâng,

nhưng đừng đưa lá thu vàng

đã nhặt lên

- đọc rồi đốt đi

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Có phải con nhện

đang khóc

gió thu không ?

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Thu đang tàn

Có ai hiểu được

Nỗi buồn của tôi

Yotsuya Ryu (1758)

Đầu thu

Biển và đồng ruộng

Cùng một màu xanh

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Đầu hè

Hạt cát lạc vào

Rau sáng ăn

Kaneko Tota (1897)

Trong xóm bé nhỏ

Chùm lá trà nhặt được

Sau con giông

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Thu anh đã đến

thân thương thu em

mang đầy sao trên da nai

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Gió thu về

Hai cái đĩa

Mỗi cái in một mẫu vẽ

Kuroyanagi Shoha (1727-1771)

Trên mặt nước thu

Từ tim lửa rực đỏ

Làn khói bay ra

Mukai Kyorai (1651-1704)

Gương trăng

Nhìn đêm thu thơm

Như thấy một năm mới

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Tiếng sậy

như tiếng gió thu

chuyển từ cái miệng kia

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Ngồi một mình

Gió thu

Ăn bữa cơm của tôi

Kobayashi Issa (1763-1828)

Theo tôi

Bên kia cuộc đời giống như -

Một chiều thu

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Đá lạnh tàn rồi

Nhưng bông hoa còn nở

cũng mang vẻ chán đời

Matsuo Bashõ (1644-1695)

Hoa cẩm tú cầu

Đă chọn màu xanh

Mưa thu

Masaoka Shiki (1866-1909)

Một lời anh ấy

Một lời của tôi

Mùa thu già thêm

Tôi nghĩ vậy

Aratika Moritake (1452-1549)

Mưa thu cứ rơi đi

Tôi chưa

Chết đâu !

Taneda Santoka (1882-1939)

Đưa mặt trái lên

Rồi đưa mặt kia

Chùm lá chia lìa

vì ngọn gió thu

Yotsuya Ryu (1758)