Việc sử dụng đất nung trên bán đảo Triều Tiên bắt nguồn từ thời đồ đá mới. Lịch sử đồ gốm sứ Triều Tiên kéo dài, phát triển từ giai đoạn sử dụng đất sét theo phương pháp truyền thống để tạo ra các hiện vật cúng tế và điêu khắc. Trong thời kỳ Tam Quốc (Triều Tiên), đồ gốm đã có những tiến triển tại Tân La. Đồ gốm được nung bằng lửa điôxit, tạo nên những khác biệt màu men xám và xanh dương. Bề mặt sản phẩm được chạm nổi với các mẫu hình học trang trí khác nhau.
Trong thời Cao Ly, men ngọc bích trở nên phổ biến hơn. Vào thế kỷ 12, phương pháp khảm tinh vi đã được phát minh, cho phép tạo nên những trang trí sắc sảo với nhiều màu sắc khác nhau. Evelyn McCune đã nói về nghệ thuật Triều Tiên: "Trong thế kỷ 12, việc sản xuất đồ gốm đã đạt đến đỉnh cao của độ tinh tế. Một vài loại hình xuất hiện đồng thời trong khoảng thời gian đầu của thế kỷ, một trong số đó là đồ khảm phải được xem là một phát minh của Triều Tiên." Cả Trung Quốc lẫn Nhật Bản đều không sản xuất men ngọc dát, điều này chỉ có duy nhất ở đồ gốm thời Cao Ly.
William Bowyer Honey, làm việc tại Bảo tàng Victoria và Albert ở Anh, sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã ghi lại rằng: "Đồ gốm Triều Tiên chất lượng nhất không chỉ đơn thuần là những sản phẩm nguyên thủy đầu tiên mà còn là những đồ gốm tốt nhất và không hề chịu ảnh hưởng bởi những nền văn hóa khác từng được tạo ra. Chúng hội tụ đầy đủ những chất lượng mà đồ gốm có thể có. Trên thực tế, đồ gốm Triều Tiên đã vươn đến tầm cao mà ngay cả đồ gốm Trung Quốc cũng khó đạt được."
Đồ sứ trắng trở nên phổ biến trong thế kỷ 15. Chúng nhanh chóng vượt qua sứ men ngọc. Sứ trắng thường được sơn hoặc trang trí bằng đồng.
Cùng với những cuộc xâm lược Nhật Bản sang Triều Tiên trong thế kỷ 16, nhiều thợ gốm bị bắt đưa sang Nhật Bản và từ đó chịu ảnh hưởng gốm sứ Nhật Bản. Nhiều đồ gốm Nhật Bản gia dụng ngày nay có nguồn gốc nghệ thuật và tổ tiên từ hàng ngàn thợ làm gốm Triều Tiên mà Nhật Bản đã bắt giữ trong hàng loạt cuộc chinh phục diễn ra nhiều lần tại bán đảo Triều Tiên.
Trong giai đoạn giữa triều đại Cao Ly (cuối thế kỷ 17), sứ xanh dương trở nên thịnh hành. Các sản phẩm được sơn màu xanh cobalt lên sứ trắng. Theo sự tăng trưởng của quyền bá chủ Nhật Bản tại bán đảo Triều Tiên vào cuối thế kỷ 19, truyền thống gốm sứ đã suy giảm khi gốm sứ Nhật Bản xuất hiện hàng loạt và lấn át các đối tác Triều Tiên.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Nguyên tắc bố trí của những khu vườn đền đài và khu vườn tư nhân đều giống nhau. Vườn Triều Tiên tại khu vực Đông Á chịu ảnh hưởng của Đạo giáo và Shaman giáo. Đạo giáo nhấn mạnh yếu tố tạo hóa và sự huyền bí, coi trọng từng chi tiết bố trí. Ngược lại với vườn Nhật Bản và Trung Quốc, trong khi những khu vườn ở các quốc gia này được thêm vào nhiều yếu tố nhân tạo, vườn truyền thống Triều Tiên tránh những gì có tính nhân tạo, cố gắng làm cho khu vườn trở nên tự nhiên hơn cả tự nhiên.
Hồ sen là một yếu tố quan trọng trong khu vườn Triều Tiên. Nếu có một dòng suối tự nhiên, thường là sẽ có một công trình nghỉ mát xây dựng bên cạnh đó để thưởng thức cảnh quan. Bậc thang bao quanh bởi luống hoa là một yếu tố phổ biến trong các khu vườn truyền thống Triều Tiên.
Vùng Poseokjeong gần Gyeongju được xây dựng trong thời kỳ Tân La. Vùng này nhấn mạnh tầm quan trọng của nước trong khu vườn truyền thống Triều Tiên. Các khu vườn ở Poseokjeong có đặc trưng là những nguồn nước tạo hình bào ngư. Trong những ngày cuối cùng của vương quốc Tân La, tại nhau các bữa tiệc, khách của nhà vua sẽ ngồi dọc theo nguồn nước và trò chuyện trong lúc chuyền tay nhau chén rượu.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Gạo là loại lương thực chính ở Triều Tiên. Triều Tiên có các thành phần và cách thức nấu ăn chủ yếu hình thành trong quá trình lâu dài gần như là một nước nông nghiệp chỉ cho đến gần đây. Các loại cây trồng chính ở Triều Tiên là lúa, lúa mạch và đậu nhưng ngoài ra còn có nhiều loại cây trồng khác. Cá và các loài hải sản khác cũng rất quan trọng bởi vì Triều Tiên vốn là một bán đảo ba mặt giáp biển.
Món ăn lên men cũng sớm phát triển. Các món này bao gồm cá muối và rau cải muối. Loại thực phẩm này cung cấp các chất đạm và vitamin cần thiết trong suốt mùa đông..
Rất nhiều món ăn đã hình thành và trở nên phổ biến. Có thể chia các món ăn này thành thực phẩm dành cho các ngày lễ kỉ niệm và thực phẩm nghi lễ. Thực phẩm dành cho các ngày lễ kỉ niệm dùng trong những buổi tiệc mừng trẻ em đạt 100 ngày tuổi, trong buổi sinh nhật đầu tiên, tại một lễ cưới và tiệc mừng thọ sáu mươi. Thực phẩm nghi lễ được sử dụng tại đám tang, buổi nghi lễ tổ tiên, cúng thờ Shaman giáo và là thực phẩm ở các đền chùa.
Một điểm đặc trưng của thực phẩm đền chùa là không sử dụng thịt và năm thành phần gia vị mạnh phổ biến trong nền ẩm thực Triều Tiên (tỏi, hành lá, tỏi tầm dại, tỏi tây và gừng).
Ngày nay, ai cũng có thể dùng món surasang (món ăn truyền thống cung đình). Trước đây, người dân dùng các món ăn rau củ là chủ yếu, nhưng xu hướng tiêu thụ thịt đã tăng lên. Các món ăn truyền thống gồm ssambap, bulgogi, sinseollo, kim chi, bibimbap và gujeolpan.
Xem một số món ăn của hàn quốc và triều tiên: => tại đây
Nguồn: vi.wikipedia.org
Trà ở Triều Tiên có nguồn gốc hơn 2000 năm trước. Nó là một phần của các phương pháp pha chế thờ cúng, với mong muốn rằng mùi hương tốt có thể dâng lên các vị thần trên trời. Trà được đưa đến Triều Tiên khi Phật giáo Trung Quốc du nhập vào Triều Tiên, sau đó mở đầu cho sự hình thành nền trà đạo Triều Tiên.
Trà ban đầu được sử dụng cho mục đích nghi lễ hoặc dùng như một phần của loại thảo dược truyền thống. Trà xanh được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và Nhật Bản không phải là loại trà duy nhất người Triều Tiên dùng. Phần lớn các loại trà làm từ trái cây, lá, hạt hoặc rễ đều được yêu thích. Triều Tiên phân biệt năm vị của trà: ngọt, chua, mặn, đắng và cay.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Lịch truyền thống Triều Tiên dựa trên lịch âm dương. Ngày được tính từ kinh tuyến của Hàn Quốc, lễ kỷ niệm và lễ hội có nguồn gốc từ nền văn hóa Triều Tiên. Âm lịch Triều Tiên được chia thành 24 mốc chuyển (jeolgi), mỗi mốc kéo dài khoảng 15 ngày. Âm lịch là thời gian biểu cho xã hội nông nghiệp trong quá khứ nhưng hiện đã biến mất trong lối sống của người Triều Tiên hiện đại.
Lịch Gregory đã chính thức được thông qua vào năm 1895, nhưng ngày lễ truyền thống và cách tính tuổi vẫn theo lịch cũ. Thế hệ lớn tuổi vẫn ăn mừng ngày sinh nhật theo âm lịch.
Lễ hội lớn nhất tại Triều Tiên ngày nay là lễ Seollal (năm mới truyền thống Triều Tiên). Các lễ hội năm mới quan trọng khác gồm Daeboreum (rằm tháng Giêng), Dano (lễ hội mùa xuân) và Chuseok (lễ hội thu hoạch).
Ngoài ra còn nhiều lễ hội địa phương đều được tổ chức theo âm lịch.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Có nhiều loại trò chơi theo dạng bàn cờ tại Triều Tiên. Baduk là tên gọi tiếng Triều Tiên của cờ vây. Trò chơi này đặc biệt đặc biệt phổ biến đối với thế hệ đàn ông trung niên và cao tuổi và tương đối giống với cờ vua của văn hóa phương Tây. Ngoài ra còn một loại cờ khác ở Triều Tiên gọi là Janggi, dựa trên phiên bản cờ tướng xưa của Trung Quốc, tuy nhiên vẫn có một số điểm khác biệt riêng. Yut là một trò chơi dạng bàn cờ dành cho gia đình, người dân ở khắp Triều Tiên đều tham gia trò chơi nay, đặc biệt là trong những ngày lễ.
Chajeon Nori là một trò chơi truyền thống gồm hai đội dân làng tham gia vào một trận đấu cưỡi ngựa đấu thương lớn. Tuy nhiên, hiện nay trò chơi này không còn diễn ra thường xuyên nữa, ngoại trừ vào những dịp đặc biệt.
Nhiều trò chơi dân gian kết hợp với nghi thức Shaman giáo và đã được lưu truyền nối tiếp qua nhiều thế hệ. Ba nghi lễ quan trọng liên quan đến những trò chơi dân gian này là: Yeonggo, Dongmaeng và Mucheon. Yeonggo là màn trình diễn trống để gọi thần linh, Dongmaeng là lễ hội thu hoạch, còn Mucheon là điệu múa dâng lên thánh thần. Những màn trình diễn đã được kế thừa và chắt lọc từ thời kỳ Tam Quốc (Triều Tiên), đồng thời được thêm thắt vào để tạo thành trò chơi.
Ssireum là một hình thức đấu vật truyền thống. Những trò chơi truyền thống khác gồm: ném mũi tên vào hũ (tuho), kịch múa đeo mặt nạ, chơi bóng (gyeokku),...
Nguồn: vi.wikipedia.org
Tôn giáo đầu tiên của người Triều Tiên là Saman giáo, mặc dù không còn phổ biến như trong thời cổ đại nhưng Shaman giáo vẫn tồn tại đến ngày nay. Người dân thường kêu gọi nữ thần Shaman hay mudang để cầu xin sự phù hộ với mong muốn đạt được những ước nguyện khác nhau.
Phật giáo và Nho giáo đã đến Triều Tiên thông qua trao đổi văn hóa với Trung Quốc. Phật giáo là tôn giáo chính thức của triều đại Cao Ly, trong thời kỳ này các tăng lữ Phật giáo có nhiều quyền lợi và ưu đãi. Tuy nhiên, cũng trong thời kỳ Cao Ly đã diễn ra quá trình đàn áp Phật giáo, tăng lữ và chùa chiền bị cấm ở thành thị và chỉ giới hạn phạm vi ở nông thôn. Thay vào đó hình thái nghiêm ngặt của Nho giáo do Trung Quốc đem đến, thậm chí có phần khắt khe hơn những gì từng tồn tại trước đó, đã trở thành triết lý chính thức ở Triều Tiên.
Nguồn: vi.wikipedia.org