Sốt xuất huyết hay chính xác hơn là sốt xuất huyết do virus là một nhóm các bệnh do một số họ virus sau: Arenavirus, Filoviridae, Bunyaviridae và Flavivirus. Một số loài virus có thể gây bệnh nhẹ như sốt Nephropathia Scandinavia, trong khi đó một số loài khác có thể gây bệnh tương đối nặng, thậm chí có thể gây tử vong, chẳng hạn như sốt Lassa, virus Marburg, Bệnh virus Ebola, sốt xuất huyết Bolivia, Hantavirus (sốt xuất huyết Triều Tiên), sốt xuất huyết Crimea-Congo, và sốt xuất huyết Dengue. Đây là bệnh sốt cao có xuất huyết, có thể quy vào các chứng ôn dịch, thời độc, thử táo dịch hoặc thấp nhiệt. Sốt xuất huyết được truyền qua muỗi, đặc biệt là muỗi vằn.
Ở Việt Nam, tỷ lệ người trên 15 tuổi mắc sốt xuất huyết tại các tỉnh phía Nam đã tăng từ 35% năm 1999 lên đến 60% năm 2017. Theo các bác sĩ chuyên ngành, đây là điều rất đáng lo ngại vì người lớn bị sốt xuất huyết dễ tử vong hơn trẻ em
Có ba loại bệnh sốt xuất huyết: sốt xuất huyết cổ điển (thể nhẹ), sốt xuất huyết chảy máu và sốt xuất huyết dengue (hội chứng sốc dengue).
Những người lần đầu tiên mắc bệnh bị loại sốt xuất huyết này vì họ chưa có miễn dịch với bệnh. Đây là dạng có biểu hiện các triệu chứng điển hình và không có biến chứng. Bệnh sốt xuất huyết thường bắt đầu với triệu chứng sốt và sẽ kéo dài trong vòng 4-7 ngày tính từ sau khi bị truyền bệnh bởi muỗi. Ngoài ra, còn có các triệu chứng như:
Sốt cao, lên đến 40,5oC;
Nhức đầu nghiêm trọng;
Đau phía sau mắt;
Đau khớp và cơ;
Buồn nôn và ói mửa;
Phát ban.
Các bạn sốt xuất huyết có thể xuất hiện trên cơ thể 3-4 ngày sau khi bắt đầu sốt và sau đó thuyên giảm sau 1-2 ngày. Bạn có thể bị nổi ban lại một lần nữa vào ngày sau đó.
Các dấu hiệu sốt xuất huyết dạng này bao gồm tất cả các triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết nhẹ kèm theo tổn thương mạch máu và mạch bạch huyết, chảy máu cam, chảy máu ở nướu hoặc dưới da, gây ra vết bầm tím. Thể bệnh này có thể dẫn đến tử vong.
Thể bệnh này là dạng nặng nhất của bệnh sốt xuất huyết – bao gồm tất cả các biểu hiện của bệnh sốt xuất huyết nhẹ cộng với các triệu chứng chảy máu, kèm theo huyết tương thoát khỏi mạch máu, chảy máu ồ ạt trong và ngoài cơ thể, sốc (huyết áp thấp).
Sốt xuất huyết dengue thường xảy ra trong lần nhiễm trùng sau, khi bạn đã có miễn dịch chủ động (do đã từng mắc bệnh) hoặc thụ động (do mẹ truyền sang) đối với một loại kháng nguyên virus. Bệnh thường biểu hiện nặng đột ngột sau 2 đến 5 ngày (giai đoạn hạ sốt). Dạng này của bệnh thường xảy ra ở trẻ em (đôi khi ở người lớn). Dạng bệnh này có thể gây tử vong, đặc biệt là ở trẻ em và thanh thiếu niên.
Sốt cao, khoảng 40 độ C
Đau đầu
Đau cơ, xương và khớp
Buồn nôn và nôn
Đau vùng hốc mắt
Sưng hạch bạch huyết
Bị phát ban
Xuất hiện trong thời gian ủ bệnh, từ 4 – 7 ngày sau khi bị muỗi mang mầm bệnh đốt.
Nổi mẩn, phát ban, da xung huyết
Sốt cao đột ngột từ 39 – 40°C, kéo dài 2 – 7 ngày, uống thuốc hạ sốt nhưng không hạ sốt và cơn sốt tái phát liên tục.
Đau đầu dữ dội, nhức hai hố mắt.
Chán ăn, buồn nôn
Đau cơ, đau khớp
Người bệnh đã giảm sốt nhưng vẫn còn sốt nhẹ. Giai đoạn này cần đặc biệt theo dõi biểu hiện của sốt xuất huyết dengue
Đau bụng, buồn nôn, tay chân lạnh và hốt hoảng do xuất huyết nội tạng gây mất máu và tụt huyết áp.
Xuất huyết dưới da, nốt xuất huyết rải rác hoặc các chấm nhỏ, thường ở cẳng chân ở cánh tay, bụng, đùi, mạng sườn hoặc bầm tím.
Chảy máu mũi, lợi, tiểu ra máu.
Kinh nguyệt kéo dài hoặc xuất hiện kinh sớm.
Xuất huyết nội tạng, phổi, não là biểu hiện nặng của bệnh
Thoát huyết tương do tính thấm thành mạch (kéo dài 24 – 48 giờ).
Sau giai đoạn nguy hiểm khoảng 1 – 2 ngày, bệnh nhân có hiện tượng tái hấp thu dịch từ mô kẽ vào bênh trong lòng mạch, kéo dài trong 48 – 72 giờ.
Đi tiểu nhiều, tình trạng tốt lên, hết sốt, huyết động ổn đinh
Nhịp tim chậm và điện tâm đồ thay đổi
Nguồn: hapacol.vn