Lịch sử Nhật Bản bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các nghiên cứu khảo cổ học cho thấy trên các hòn đảo mà nay là Nhật Bản đã có người sinh sống ngay từ cuối thời kỳ đồ đá cũ. Ngay sau thời kỳ băng hà cuối cùng, khoảng 12.000 TCN, hệ sinh thái phong phú trên quần đảo Nhật Bản đã giúp đẩy nhanh sự phát triển loài người, sản sinh ra nền văn hóa đất nung nổi tiếng của thời kỳ Jomon (thời kì đồ đá mới Nhật Bản).
Nhật Bản với nhiều thời kỳ cô lập thay thế nhau bị gián đoạn bởi các ảnh hưởng cấp tiến, thường là cách mạng từ thế giới bên ngoài. Các tài liệu đầu tiên viết về Nhật Bản qua các đoạn ghi chép ngắn trong Nhị thập tứ sử của người Trung Quốc. Các ảnh hưởng tôn giáo và tín ngưỡng chính được du nhập từ Trung Quốc.
Đọc thêm:=> tại đây
Tôn giáo ở Nhật Bản, được thống trị bởi hai tôn giáo chính: Thần đạo - Shinto (tôn giáo dân gian của người Nhật) và Phật giáo với các tổ chức liên quan. Theo cuộc điều tra được thực hiện vào năm 2006 và năm 2008, dưới 40% dân số của Nhật Bản tự nhận đi theo một tôn giáo có tổ chức: khoảng 35% là Phật giáo, 3% đến 4% là tín đồ của Thần đạo và các tôn giáo phái sinh từ Thần đạo, và ít hơn 1% đến 2.3% dân số theo Kitô giáo.
Hầu hết người Nhật (50% đến 80% khi xem xét đến liên hệ phức tạp với Phật giáo, shinbutsu-shūgō) thờ cúng tổ tiên và các vị thần ( kami, shin, hoặc jin) ở các đền thờ Thần đạo hoặc đền thờ cá nhân trong khi không xác định mình là người theo "Thần đạo" khi được phỏng vấn. Lý do là những từ này ít có ý nghĩa đối với phần lớn người Nhật hoặc những từ này có ý nghĩa là các hội viên chính thức của các tổ chức giáo phái Thần đạo. Thuật ngữ "tôn giáo" ( shūkyō) trong văn hóa Nhật Bản chỉ có nghĩa là các tôn giáo có tổ chức (tôn giáo với học thuyết cụ thể và yêu cầu hội viên phải gia nhập). Những người tự nhận là "không tôn giáo" ( mushūkyō) trong cuộc điều tra thực sự có nghĩa là họ không thuộc về bất cứ tôn giáo có tổ chức nào, cho dù họ có thể tham gia vào các nghi lễ thờ cúng của Thần đạo.
Đọc thêm:=> tại đây
Nguồn: vi.wikipedia.org
Nhật Bản là quốc gia có tính đồng nhất về sắc dân và văn hóa. Người dân không có nguồn gốc Nhật chỉ chiếm hơn 1% tổng dân số vào năm 1993. Sắc dân nước ngoài đông nhất là Triều Tiên nhưng nhiều người Triều Tiên sinh trưởng tại Nhật Bản đã nói tiếng Nhật không khác gì người Nhật Bản cả. Sắc dân này trước kia bị kỳ thị tại nơi làm việc và tại một số phương diện trong đời sống hàng ngày. Sắc dân ngoại quốc thứ hai là người Hoa rồi về sau còn có một số dân lao động gồm người Philippines và người Thái. Nhật Bản là một trong những đất nước có lịch sử lâu đời. Người Nhật luôn coi trọng giáo dục, vì nó tạo ra nguồn nhân lực cần thiết cho sự phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Về hệ thống giáo dục của Nhật Bản thì tiểu học, trung và đại học được áp dụng ở Nhật như một trong các cải cách thời Minh Trị. Từ năm 1947, Nhật Bản áp dụng hệ thống giáo dục bắt buộc gồm tiểu học và trung học trong chín năm cho học sinh từ sáu đến mười lăm tuổi. Hầu hết sau đó đều tiếp tục chương trình trung học và theo MEXT, khoảng 75,9% học sinh tốt nghiệp phổ thông tiếp tục học lên bậc đại học, cao đẳng hay các chương trình trao đổi giáo dục khác. Giáo dục ở Nhật có tính cạnh tranh rất cao đặc biệt ở các kì thi tuyển sinh đại học,điển hình là các kì thi tuyển của hai trường đại học cao cấp Tokyo và Kyoto. Chương trình đánh giá sinh viên quốc tế hợp tác OECD hiện xếp Nhật Bản ở vị trí thứ sáu thế giới.
Do dân số đông, mật độ dân số của Nhật Bản lên tới 327 người/km², ngang hàng với các nước có mật độ cao như Bỉ, Hà Lan và Triều Tiên. Khoảng 49% dân Nhật tập trung quanh ba đô thị lớn là Tokyo, Osaka và Nagoya cùng với các thành phố phụ cận. Tokyo vẫn là nơi đông dân nhất, với khoảng 1/3 tổng dân số. Lý do của sự tập trung này là vì Tokyo là trung tâm của khu vực dịch vụ. Vào năm 1991, Nhật Bản có 13% dân số trên 65 tuổi, con số này thấp hơn so với của Thụy Điển là 18% và Anh là 15%. Tuổi thọ trung bình tại Nhật Bản là 81 đối với phụ nữ và 75 với nam giới. Do tuổi thọ cao trong khi mức sinh ngày càng thấp, hiện nay Nhật Bản đang phải đối mặt với nguy cơ già hóa dân số.
Bữa ăn sáng truyền thống Nhật Bản Do sống biệt lập với các quốc gia khác tại châu Á trong nhiều thế kỷ cho tới thời kỳ mở cửa vào năm 1868, Nhật Bản đã có các nét riêng về phong tục, tập quán, chính trị, kinh tế và văn hóa... trong đó gia đình đã giữ một vai trò trọng yếu. Trước Thế Chiến thứ Hai, phần lớn người Nhật sống trong loại gia đình gồm ba thế hệ. Sự liên lạc gia đình đã theo một hệ thống đẳng cấp khắt khe theo đó người cha được kính trọng và có uy quyền. Người phụ nữ khi về nhà chồng phải tuân phục chồng và cha mẹ chồng nhưng sau khi Luật Dân Sự năm 1947 được ban hành, người phụ nữ đã có nhiều quyền hạn ngang hàng với nam giới về mọi mặt của đời sống và đặc tính phụ quyền của gia đình đã bị bãi bỏ. Phụ nữ Nhật đã tham gia vào xã hội và chiếm 40,6% tổng số lực lượng lao động của năm 1990.
Các phát triển nhanh chóng về kinh tế, kỹ thuật và đô thị cũng làm gia tăng loại gia đình hạt nhân chỉ gồm cha mẹ và các con, khiến cho loại đại gia đình giảm từ 44% vào năm 1955 xuống còn 13,7% vào năm 1991. Số người con trong gia đình cũng giảm từ 4,7 vào năm 1947 xuống còn 1,5 vào năm 1991 vì việc làm nơi thành phố và do cuộc sống trong các căn nhà chung cư chỉ thích hợp với loại gia đình trung bình là 2,9 người.
Khác với các nước châu Á trên thế giới, Tết cổ truyền ở Nhật Bản được tổ chức vào mùng 1 tháng 1 dương lịch hàng năm. Cũng giống với như phong tục tập quán của Việt Nam trước khi đón tết, mọi người thường quét dọn và trang trí nhà cửa, treo Shimenawa xua đuổi ma quỷ và chào đón những vị thần linh. Đây là ngày mọi người trong gia đình quây quần, chúc phúc cho nhau.
Mồng 1 tết, người Nhật sẽ làm các món ăn Nhật Bản truyền thống như sashimi, sushi, các món ăn làm từ hải sản, rau thịt… Sau bữa ăn, mọi người sẽ cùng nhau đi về quê hoặc đi chúc tết ông bà, người thân để có một năm mới đầy may mắn và bình an.
Lễ Hội Búp Bê (Hina Matsuri)
Được tổ chức vào mùng 03 tháng 03 hàng năm, lễ hội búp bê (Hina Matsuri) đã trở thành một nét đẹp văn hóa người Nhật Bản đặc trưng. Lễ hội búp bê được bắt nguồn từ thời kỳ Heian và vẫn được lưu giữ đến ngày nay. Hina Matsuri là ngày để gia đình cầu may mắn và sức khỏe đến với các bé gái. Trong ngày này, người ta sẽ bày biện các con búp bê Hina trong căn phòng đẹp nhất của gia đình (bao gồm búp bê hình Thiên Hoàng, Thiên Hậu và dàn cận thần xung quanh) . Người Nhật trong ngày lễ này sẽ quây quần bên nhau, uống rượu shirosake trắng và ăn bánh hishimochi để mừng ngày hội.
Lễ Hội Hoa Anh Đào (Hanami)
Lễ hội Hanami được xem là một trong những lễ hội lớn và lâu đời nhất tại Nhật. Hàng năm, vào mùa xuân từ cuối tháng 3 đầu tháng 4, hoa anh đào trên khắp cả nước Nhật bắt đầu nở rộ. Lễ hội hoa anh đào sẽ kéo dài trong khoảng 10 ngày, người dân sẽ ngồi dưới những tán hoa anh đào ngắm hoa, tổ chức tiệc tùng, cùng nhau hát hò, nhảy múa… Nếu có dịp ghé qua xứ sở hoa anh đào, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt sắc nơi đây; được tìm hiểu văn hóa, phong tục tập quán của đất nước xinh đẹp này.
Lễ Vu Lan (Obon)
lễ hội Obon – nét văn hóa đặc sắc của Nhật Bản được tổ chức vào ngày 13 đến 20 tháng 7 hàng năm. Đây là dịp để người Nhật tưởng nhớ linh hồn của tổ tiên và những người bề trên đã khuất. Vào ngày lễ, người Nhật sẽ dọn dẹp mồ mả, dọn đường đi từ mộ về nhà và cúng những con châu, con ngựa bằng rơm bện rồi đem đốt lửa, như gửi gắm phương tiện đi lại cho người đã mất, hoặc thắp đèn lồng từ mộ đến nhà để chỉ lối về cho linh hồn tổ tiên và người thân đã khuất trở về nhà. Vào ngày cuối cùng của lễ hội Obon, người ta sẽ đem đèn lồng thả ở các con sông, hồ, các bờ biển… xem như tiễn đưa linh hồn người quá cố trở về thế giới của họ. Ở các vùng trên khắp cả nước Nhật sẽ tổ chức cuộc thi đốt pháo hoa, thả đèn trời, nhảy múa…
Cùng với sự thay đổi về số người trong gia đình, nếp sống hiện nay của người Nhật Bản khác ngày trước do việc dùng các máy móc gia dụng, do sự phổ biến các loại thực phẩm ăn liền và đông lạnh, các loại quần áo may sẵn và các phương tiện hàng ngày khác. Những tiện nghi này đã giải phóng người phụ nữ khỏi các ràng buộc về gia chánh, cho phép mọi người có dư thời giờ tham gia vào các hoạt động giải trí, giáo dục và văn hóa. Các tiến bộ về công bằng xã hội cũng làm mất đi tính kỳ thị về giai cấp, về quá trình gia đình, và đại đa số người Nhật Bản thuộc giai cấp trung lưu, căn cứ vào lợi tức của họ.
Một số người Nhật rất ưa chuộng lối sống tối giản họ thường giảm bớt đồ đạc ra khỏi nhà tới mức tối thiểu để có một cuộc sống tốt hơn và có nhiều thời gian hơn, vì họ quan niệm rằng quá nhiều đồ đạc sẽ đánh mất sự tự do của bản thân, chỉ nên giữ lại những đồ vật cần thiết và thực sự quan trọng. Một số người thường áy náy khi vứt đồ, dù là đĩa, sách, những bức hình kỉ niệm hay quà từ người quan trọng, người Nhật vẫn vứt vì thấy không cần nó nhưng lại biết ơn người tặng. Biết tận dụng những món đồ quan trọng sẽ hạn chế việc mua những đồ mới cũng như giảm chi phí sinh hoạt, tập trung được vào mọi việc, mang lại nhiều công sức và giảm thời gian làm việc nhà. Trong các trận động đất hay sóng thần Nhật Bản, những người ít đồ đạc sẽ không chấn thương nhiều như những người có nhiều đồ, thậm chí nhiều đồ vật quá tải có thể giết chết chủ nhà và kể cả những món đồ đắt giá cũng bị mất theo, những đồ cần thiết lại được giữ lâu hơn.
Ngày nay mặc dù Nhật Bản đã là một quốc gia tân tiến nhưng trong xã hội Nhật, vai trò và các liên hệ nam nữ đã được ấn định rõ ràng. Thời cổ, Nhật Bản theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ có vai trò lớn hơn nam giới. Từ khi thời kỳ phong kiến phát triển, người đàn ông lại chiếm vai trò độc tôn. Dù rằng tinh thần giải phóng phụ nữ đã được du nhập vào Nhật Bản từ cuối thế kỷ 19 nhưng hiện nay trong đời sống công cộng, người phụ nữ vẫn ở vị thế thấp hơn nam giới và bên ngoài xã hội, người nam vẫn giữ vai trò lớn hơn. Theo căn bản, người nữ vẫn là người của "bên trong" (uchi no) và người nam vẫn là người của "bên ngoài" (soto no). Phạm vi của người phụ nữ là gia đình và các công việc liên hệ, trong khi người chồng là người đi kiếm sống và đưa hết tiền lương về cho người vợ. Thời xưa, người phụ nữ trên 25 tuổi mà chưa có chồng thường bị nam giới coi như "có khuyết điểm nào đó". Nhưng nay Nhật Bản lại là nước có phụ nữ lấy chồng rất muộn, thậm chí là sống độc thân mà không có chồng (Nhật Bản hiện nay là nước có phụ nữ lấy chồng rất ít và tỉ lệ sinh thấp nhất châu Á). Tại các công ty, nhà máy, cửa hàng... người phụ nữ thường được thuê mướn để chào đón các khách mới đến. Ngày nay, vị thế của người phụ nữ đã được nâng lên nhiều trong xã hội, nhất là tư duy của lớp thanh niên trẻ - những người thường không có quan niệm phân biệt và suy nghĩ truyền thống như lớp người trung niên.
Trong nếp sống hiện đại, người Nhật vẫn giữ được những nét truyền thống, họ rất coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc và đề cao giáo dục. Luôn đề cao truyền thống hiếu nghĩa với cha mẹ, tổ tiên; thủy chung vợ chồng, trung thành với bạn, kính trọng thầy và phục tùng lãnh đạo. Đây là đức tính quan trọng nhất trong văn hóa truyền thống. Thanh niên Nhật Bản có ý thức nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước rất cao. Họ có xu hướng sống hiện đại, thực tế, năng động, dễ hòa mình và thích nghi với hoàn cảnh mới, thích đi du lịch và tham dự các hoạt động mang tính chất phong trào.
Nguồn:vi.wikipedia.org
Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học lâu đời và giàu có bậc nhất thế giới. Các tác phẩm văn học đầu tiên có thể đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 7 thậm chí sớm hơn. Lịch sử văn học Nhật Bản chia làm ba giai đoạn chính: Cổ đại, Trung cổ (hay Trung đại) và Hiện đại, trên nhiều thể loại khác nhau.
Thơ Nhật Bản, mà điển hình là thơ haiku, với đặc trưng là các câu ngắn và việc sử dụng nhuần nhuyễn các từ chỉ mùa (Quý ngữ).
Truyện kể Genji (Genji Monogatari) của nữ sĩ cung đình Murasaki Shikibu là cuốn tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại. Trong khi đó, truyện cổ tích Chuyện người tiều phu đốn tre (Taketori Monogatari, còn biết đến với tên gọi Nàng tiên trong ống tre) được cho là tác phẩm khoa học giả tưởng xuất hiện sớm nhất với giả thuyết có người sinh sống trên mặt trăng. Các nhà văn nổi tiếng có thể kể đến như Mori Ōgai, Akutagawa Ryuunosuke, Abe Kōbō và Haruki Murakami.
Xem thêm tại đây.
Sử thi của Nhật Bản như Taketori Monogatari (nàng tiên trong ống tre) hay Heike Monogatari
Nguồn:vi.wikipedia.org
Manga là một từ tiếng Nhật chỉ thể loại truyện tranh của Nhật Bản. Manga lúc đầu chỉ là những câu chuyện được minh họa bằng tranh vốn đã xuất hiện từ lâu tại Nhật. Sau Thế chiến thứ 2, manga ngày càng phát triển và nhanh chóng trở thành một nét văn hóa của Nhật Bản.
Anime là một từ của Nhật Bản, nguồn gốc của nó vẫn còn đang gây tranh cãi, có thể được mượn từ animation trong tiếng Anh hoặc animé trong tiếng Pháp, nghĩa là phim hoạt hình. Đối với người nước ngoài, anime được hiểu là phim hoạt hình theo phong cách Nhật. Các anime thường được chuyển thể từ những bộ manga nổi tiếng (như Doraemon), hoặc ngược lại, anime làm cảm hứng cho manga (như 5cm/s).
Nguồn:vi.wikipedia.org
Ở Nhật Bản, trang phục truyền thống là Kimono, trong tiếng Nhật có nghĩa là “đồ để mặc”, hòa phục hay còn gọi là y phục Nhật. Kimono được người Nhật sử dụng từ vài trăm năm trước và ngày nay do khả năng hội nhập quốc tế và tính chất công việc nên trang phục truyền thống – kimono không còn được sử dụng hàng ngày như trước mà chỉ được sử dụng vào các dịp lễ tểt, đám cưới, lễ hội hoặc các bữa tiệc… Phụ nữ ở Nhật Bản mặc kimono phổ biến hơn nam giới. Kimono dành cho nữ giới có màu sắc nhã nhặn và hoa văn nổi bật, còn kimono dành cho nam giới thường tối màu và không có hoa văn.
Nhạc cụ của đất nước Nhật Bản có thể sắp xếp thành 3 loại chính: nhạc gỗ, sáo và đàn dây. Trong đó, sáo Nhật Bản đã có lịch sử hơn 1.000 năm và đàn một dây chỉ mới có mặt ở Nhật Bản vào thế kỷ XVIII, nhưng tất cả đã cùng nhau tạo nên màu sắc riêng cho âm nhạc Nhật Bản, phát triển song song với nghệ thuật biểu diễn truyền thống của người Nhật.
Nói đến Nhật Bản, chắc hẳn ai cũng biết đến loại hình văn hoá nghệ thuật truyền thống của đất nước Phù Tang xinh đẹp – đó chính là Geisha. Geisha là những nữ nghệ sĩ vừa có tài năng ca múa, vừa có tài kể chuyện, và được huấn luyện từ nhỏ. Ngày nay, Geisha vẫn còn hoạt động nhưng số lượng đã giảm sút do sự quan tâm của người dân đến loại hình nghệ thuật truyền thống đã suy giảm trần trọng. Tuy nhiên, khi du lịch Gion Kyoto, du khách sẽ rất dễ dàng bắt gặp một Geisha Nhật Bản truyền thống. Đối với Geisha, họ rất coi trọng vẻ bề ngoài và khi đi làm, họ giữ nguyên văn hóa Geisha độc đáo, từ trang phục nhẹ nhàng đến cách trang điểm nổi bật cũng như dáng đi đứng chuyện trò đầy khuôn phép.
Sumo là môn thể thao chiến đấu truyền thống Nhật Bản nổi tiếng thế giới, trọng lượng 100-200 kg đô vật chủ yếu là thuận. So với phương Tây phong cách đấu vật, quy luật sumo là rất đơn giản. Hai đô vật mặc một cái khố lên điền vuông trên đường kính bề mặt đất 4,5 mét (sân chơi tròn), một phần của bàn chân chạm vào mặt đất bên ngoài cơ thể người hoặc khai quật bảng cho là bị đánh bại.
Nhắc tới tinh thần võ sĩ đạo, người ta sẽ nghĩ ngay đến những chiến binh Samurai dũng mãnh, can đảm và không bao giờ lùi bước. Đây giống như một lý tưởng sống về những con người mạnh mẽ, sống đầy nghị lực và ý chí kiên cường, quyết tâm hướng đến mục tiêu. Để trở thành một võ sĩ đạo chân chính, phải tuân theo 7 quy tắc đạo đức phản ánh tinh thần võ sĩ đạo như: Ngay thẳng, dũng cảm, nhân từ, lễ phép, tự kiểm soát bản thân, danh dự và lòng trung thành. Ngày nay, Samurai không còn nữa nhưng tinh thần võ sĩ đạo ấy vẫn còn tồn tại trong mỗi người Nhật như một quy tắc sinh sống.
Ở Nhật Bản có nhiều bộ môn nghệ thuật như: Trà đạo ( Chadō - nghệ thuật pha và thưởng thức trà), Thư đạo ( Shodō - nghệ thuật viết chữ đẹp), Kiếm đạo (Kendō - nghệ thuật sử dụng kiếm, nay trở thành một môn thể thao), Hoa đạo ( Kadō - nghệ thuật cắm hoa), Thư họa ( Shoga - nghệ thuật vẽ tranh bằng mực Tàu, bút lông hoặc viết chữ nghệ thuật giống như đang vẽ), Nhu đạo ( Judō - một môn võ truyền thống của Nhật với các thế vật, ngoài ra đòi hỏi người học phải có cốt cách), Không thủ đạo ( Karate-dō - một môn võ truyền thống của Nhật)
Nguồn:vi.wikipedia.org
Nói về ẩm thực Nhật Bản, chúng ta sẽ nghĩ đến " thứ nhất sushi, thứ nhì trà đạo". Ẩm thực Nhật Bản không lạm dụng quá nhiều gia vị mà chú trọng vào sự tươi ngon tinh khiết của món ăn. Là một quốc đảo bốn bề là biển, hải sản luôn chiếm đa số trong khẩu phần ăn của người Nhật. Như hầu hết các nước châu Á khác, lương thực chính của Nhật Bản là gạo. Người Nhật cuộn gạo nấu chín trong những tấm rong biển sấy để tạo thành món sushi, được coi là quốc thực của Nhật Bản. Ngoài ra,cá, đậu nành, rượu sake, và bột trà xanh cũng tạo nên đặc trưng trong văn hóa ẩm thực Nhật Bản.
Xem thêm => tại đây.
Nguồn:vi.wikipedia.org