Trung Quốc có nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa-Hạ. Người Hoa ngày nay tự cho tổ tiên họ gổc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay. (Dân núi Hoa sông Hạ).
Trung Quốc ngày nay có 56 dân tộc, và 5 dân tộc có dân số đông nhất là Hán (~1,2 tỉ), Choang (16,1 triệu), Mãn (10,6 triệu), Hồi (9,8 triệu), H'Mông (8,9 triệu).
Nguồn: vi.wikipedia.org
Đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa, xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện.
Kinh Thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân-Thu, được Khổng tử sưu tập và chỉnh lý. Kinh Thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng.
Thơ Đường là thời kỳ đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả có ba nhà thơ lớn nổi bật là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Tới thời Minh – Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung), Thủy hử (Thi Nại Am), Tây du ký (Ngô Thừa Ân), Nho lâm ngoại sử (Ngô Kính Tử), Hồng lâu mộng (Tào Tuyết Cần),... Trong đó, Hồng lâu mộng được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.
Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu.
Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại Sử ký, chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.
Tới thời Đông Hán, có các tác phẩm Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp.
Tới thời Minh và Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ khố toàn thư là những di sản văn hoá đồ sộ của Trung Quốc.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện cuốn Chu bễ toán kinh, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông.
Thời Đông Hán, đã có cuốn Cửu chương toán thuật, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc 1, đã có cả khái niệm số âm, số dương.
Thời Nam – Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó.
Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì sao. Họ đã xác định được chu kỳ chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can Chi. Thế kỷ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt Trời. Thế kỷ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất.
Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn châu Âu thế kỷ XIII.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời nhà Minh có cuốn Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữ Latin và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt, châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc
Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỷ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Trong lịch sử xa xưa của dân tộc Trung Hoa, võ thuật đã xuất hiện lần đầu tiên khoảng hơn 4.000 năm trước đây dưới hình thức tương tự như đấu vật, chẳng hạn như trong truyền thuyết “Hoàng Đế Chiến Xi Vưu.” Trong thời Chiến Quốc (475-221 trước công nguyên), kiếm thuật được phát triển. Trong thời nhà Hán (202 trước công nguyên – 220 sau công nguyên) và nhà Đường (618-907 sau công nguyên), những nội hàm thâm sâu hơn được đưa vào kiếm thuật. Lấy ví dụ, “Đại Đường Tam Tuyệt” được đề cập đến trong thơ của Lý Bạch, kiếm thuật của Bùi Mân và nghệ thuật thư pháp của Trương Húc. Điều đó cho thấy, vào thời gian đó, kiếm thuật đã lên đến đỉnh cao trong lịch sử Trung Hoa cùng với nghệ thuật thơ ca.
Từ đời nhà Tống (960-1279 sau công nguyên) và nhà Nguyên (1271-1368 sau công nguyên), Đạo nhân Trương Tam Phong đã sáng tạo ra Thái Cực Quyền thông qua quá trình tu luyện của ông. Trong đời nhà Minh (1368-1644 sau công nguyên) và nhà Thanh (1636-1912 sau công nguyên), Thái Cực Quyền được kế thừa và phát triển, đồng thời “Bát Quái Chưởng” và “Hình Ý Quyền” cũng được truyền rộng trong giới tu luyện. Trong dân gian cũng phát triển “Ngoại Gia Quyền” với đặc điểm là nhanh và đẹp mắt, chẳng hạn như “Tra, Hoa, Pháo, Hồng”, kèm theo với “Đẳng Trường Quyền” và “Bát Cực”, “Thông Tý”, “Phiên Tử”, “Đường Lang” với những kỹ năng và thủ pháp võ thuật mang phong cách khác nhau. Môn võ thuật Thiếu Lâm vang danh thiên hạ cũng phân thành Bắc phái và Nam phái, với đặc điểm phân biệt là Nam phái chú trọng đánh quyền còn Bắc Phái chú trọng đánh cước.
Uống trà được xem như một nét văn hoá truyển thống của người Trung Quốc và là một phần không thể thiếu khi đến du lịch đất nước phương đông huyền bí này. Ở Trung Quốc, trà được tôn vinh là "quốc ẩm". Cầm, kỳ (cờ), thư (thư pháp), họa, thi, tửu (rượu), trà được văn nhân Trung Quốc coi là 7 thứ không thể thiếu được trong cuộc sống, điều này cho thấy trà đã trở thành một thứ truyền tải văn hóa-nghệ thuật truyền thống của Trung Quốc. Các triều đại Trung Quốc có rất nhiều tác phẩm thi, hội họa và âm nhạc về trà, uống trà viết thơ, hoạt động đánh giá chất lượng trà đã trở thành hoạt động giao tiếp được văn nhân yêu thích.
Khi thưởng Trà cần chú trọng 5 nội dung gồm chè đạt chất lượng cao, nước pha trà đạt yêu cầu, độ nóng vừa phải, bộ đồ pha chè tốt, môi trường thưởng thức trà tốt. Ngoài phải có chè đạt chất lượng cao ra, cũng đòi hỏi bộ đồ chè phải được rửa sạch sẽ; chủ trương dùng nước sạch pha trà, nếu có điều kiện thì cần sử dụng nước suối, nước sông, thậm chí dùng nước tuyết tan trên cành cây tùng hoặc nhụy hoa mai; còn yêu cầu bộ đồ chè đạt chất lượng cao, đòi hỏi trước tiên phải dùng nước nóng tráng chén hoặc lửa nóng làm nóng chén uống trà, để hương thơm của trà tỏa ra ngào ngạt.
Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tùy.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.
Nguồn: vi.wikipedia.org
Công trình nổi tiếng thế giới như: Vạn Lý Trường Thành (dài 6700 km), Thành Tây An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.
Đọc thêm:
Về Vạn Lý Trường Thành => Bấm tại đây
Về lăng mộ Tần Thủy Hoàng => Bấm tại đây
Về Cố cung, Tử Cấm Thành => Bấm tại đây
Nguồn: vi.wikipedia.org
Trung Quốc là đất nước được xem là cội nguồn của nghề gốm sứ với bề dày phát triển hơn 10000 năm lịch sử. Qua hết thời đại này đến thời đại khác, nghề làm gốm sứ ở Trung Quốc đã không ngừng phát triển và vươn lên đỉnh cao, tạo nên những tác phẩm gốm sứ vô cùng đặc sắc và ấn tượng, mang những nét ưu việt rất riêng biệt.
Trong nền văn minh của thời đồ đá, đồ đất nung đã tồn tại và góp mặt trong những món đồ gia dụng của mọi gia đình bởi thời này chưa có sự xuất hiện của nhựa và chưa có cách chế tạo ra những món đồ gia dụng bằng kim loại như hiện nay. Cho đến hiện tại, những món đồ gốm sứ vẫn giữ một vị trí độc tôn và không thể thay thế được.
Đọc thêm: => tại đây
Đại biểu cho phái Nho gia là Khổng Tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề cao Tam cương, Ngũ thường, cùng với tư tưởng Chính danh định phận và đề cao tư tưởng Thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người.
Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh "bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật", Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo.
Đọc thêm: => bấm vào đây
Nguồn: vi.wikipedia.org
Đạo gia là Lão Tử và Trang Tử. Hai ông đã thể hiện tư tưởng của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Theo Lão Tử, "Đạo" là cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Quy luật biến hoá tự thân của mỗi sự vật ông gọi là "Đức". Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát triển và suy vong đều có mối liên hệ với nhau.
Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại "đạo trời", từ đó sinh tư tưởng an phận, lánh đời.
Phái Đạo giáo sinh ra sau này khác hẳn Đạo gia, mặc dù có phái trong Đạo giáo tôn Lão Tử làm "Thái thượng lão quân". Hạt nhân cơ bản của Đạo giáo là tư tưởng thần tiên. Đạo giáo cho rằng sống là một việc sung sướng nên họ trọng sinh, lạc sinh.
Đọc thêm: => bấm tại đây
Nguồn: vi.wikipedia.org
Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương "pháp trị", coi nhẹ "lễ trị". Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sĩ thời Tần Thuỷ Hoàng.
Theo Hàn Phi Tử, trị nước chỉ cần pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu với mọi người, không cần lễ nghĩa. Ông cho rằng trị nước cần nhất 3 điều:
Pháp: đó là phải định ra được pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu, công bằng với mọi người, không phân biệt đó là quý tộc hay dân đen.
Thế: Muốn thực thi pháp luật thì các bậc quân vương phải nắm vững quyền thế, không chia sẻ cho kẻ khác.
Thuật: đó là thuật dùng người. Thuật có 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ vào tài năng và lòng trung thành, không cần dòng dõi, đức hạnh. Khảo hạch là phải kiểm tra công việc thường xuyên. Thưởng phạt thì chủ trương "ai có công thì thưởng, ai có tội thì trừng phạt thật nặng, bất kể là quý tộc hay dân đen", trọng thưởng, trọng phạt.
Đọc thêm: Bấm vào đây
Nguồn: vi.wikipedia.org
Người đề xướng là Mặc Tử (Khoảng giữa thế kỷ V TCN đến giữa thế kỷ IV TCN). Hạt nhân quan điểm của Mặc gia là nhân và nghĩa. Mặc Tử còn là người chủ trương " thủ thực hư danh" (lấy thực đặt tên). Quan điểm của phái Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng không ít ảo tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau, ảnh hưởng của phái Mặc gia hầu như không còn đáng kể.
Đọc thêm:=> Bấm tại đây
Nguồn: vi.wikipedia.org
Các tầng lớp khác nhau trong xã hội vào những thời kỳ khác nhau theo những xu hướng phục trang khác nhau, màu vàng thường được dành riêng cho hoàng đế. Lịch sử phục trang Trung Quốc trải hàng trăm năm với những cải cách đa dạng và đầy màu sắc nhất. Trong triều đại nhà Thanh, triều đại huy hoàng cuối cùng của Trung Quốc, đã xảy ra những thay đổi về trang phục đột ngột và ấn tượng, quần áo của thời đại trước nhà Thanh được gọi là Hán phục hoặc trang phục Trung Hoa truyền thống nhà Hán. Nhiều biểu tượng như phượng hoàng được sử dụng cho mục đích trang trí cũng như kinh tế.
Đọc thêm:=> Bấm vào đây
Nguồn: vi.wikipedia.org
Sự đa dạng áp đảo khổng lồ của ẩm thực Trung Quốc chủ yếu đến từ việc các hoàng đế triều đại tổ chức những bữa tiệc với 100 món mỗi bữa ăn. Vô số các nhân viên nhà bếp hoàng gia và phi tần cùng tham gia vào quá trình chuẩn bị thức ăn. Theo thời gian, nhiều món ăn trở thành một phần văn hóa hàng ngày của người dân. Một số các nhà hàng cao cấp nhất có những công thức nấu ăn gần với thời kỳ triều đại các vua chúa gồm nhà hàng Phòng Sơn ở Công viên Bắc Hải tại Bắc Kinh và Pavilion Oriole. Có thể cho rằng, tất cả các chi nhánh Hồng Kông dù theo phong cách ẩm thực hoặc thậm chí là phong cách Mỹ thì theo một cách nào đó vẫn có nguồn gốc từ văn hóa các triều đại Trung Hoa.
Đọc thêm:=> Bấm vào đây
Nguồn: vi.wkipedia.org
Đây được coi là 1 trong 5 lễ hội truyền thống quan trọng nhất của Trung Quốc. Lễ hội mùa xuân thường được tổ chức vào ngày 1/1 âm lịch. Vào những ngày tết nguyên đán, người dân sẽ dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, trang trí lại nhà bằng những miếng giấy đỏ ghi các câu chúc may mắn, hạnh phúc và khỏe mạnh cho năm tới.
Ở lễ hội mùa xuân, trẻ em ở đây sẽ được nhận các phong bì lì xì màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn. Bữa tối cả gia đình ngồi bên mâm cơm để cùng nhau ăn các món ăn truyền thống rất vui vẻ và hòa thuận.
Vào lễ hội trăng rằm, mặt trăng ở đây là tròn nhất, sáng nhất, đẹp nhất trong năm. Khi lễ hội diễn ra, các gia đình sẽ ngồi dưới ánh trăng ăn bánh trung thu, uống nước trà cùng nhau trò chuyện. Có nhiều truyền thuyết nói về lễ hội trăng rằm, nhưng theo nhiều người thì lễ hội này diễn ra để ăn mừng vụ thu hoạch mùa xuân.
Khi đến du lịch đúng dịp lễ này, mọi người sẽ thấy người dân treo đèn lồng trước cửa nhà, không khí của buổi lễ rất đông vui và náo nhiệt
Lễ hội thuyền rồng là lễ hội có ý nghĩa nhất ở Trung Quốc. Vào ngày lễ, người dân Trung Quốc sẽ cầu bình an trong cuộc sống, tránh những rủi ro về bệnh tật không đáng có. Lễ hội Thuyền Rồng gồm 2 phần: phần lễ và phần hội. Trong phần lễ, những ngư dân sẽ dâng hương cúng để thể hiện sự kính trọng của họ với tổ tiên, các vị thần linh của sông và biển cả. Phần tiếp theo là phần hội, du khách sẽ được hòa vào không khí náo nhiệt với những cuộc đua ghe thú vị của các ngư dân. Ngoài những hoạt động trên, du khách cũng có thể thưởng thức ẩm thức đặc sắc, uống rượu, thi nấu cơm trên thuyền rồng hay cuộc thi điêu khắc đầu rồng.
Được tổ chức vào ngày 12 của tháng 3 Âm lịch, Tiết Thanh minh là một trong những lễ hội truyền thống quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người dân thường đi Tảo mộ trong ngày lễ này. Họ sẽ cúng bái thức ăn và đốt tiền mã với ý niệm để đem xuống dưới đó cho ông bà. Đây là ngày mọi người trong gia đình ở cùng nhau và tưởng nhớ đến tổ tiên.
Lễ hội đèn lồng cũng là một trong những lễ hội truyền thống quan trọng của người Trung Quốc, được tổ chức chỉ sau Tết Nguyên Đán khoảng 2 tuần. Trong ngày lễ này, món ăn thường thấy là bánh bao ngọt ăn chung với súp (Yuanxiao Tangyuan) – tượng trưng cho sự hoà hợp cùng nhau. Và người dân địa phương cũng ngắm pháo hoa với niềm tin xua đi linh hồn quỷ dữ và thắp sáng đèn lồng như biểu tượng cho một tương lai tương sáng hơn. Ngoài ra thì đây cũng là dịp để người Trung Quốc thể hiện tài năng sáng tạo của mình bằng việc thiết kế đủ loại đèn lồng với hình dáng, màu sắc và kích thướt khác nhau.
Lễ hội Vu Lan báo hiếu ở mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đều mang nét đặc trưng riêng. Trong đó, lễ hội báo hiếu tại Trung quốc toác lên nét độc đáo riêng so với các nước khác. Thường thì Phật tử Trung Hoa tổ chức lễ Vu Lan từ ngày rằm đến cuối tháng 7 âm lịch. Không khí trang nghiêm và vô cùng ấm cúng khi mọi người cùng đi viếng thăm, quét dọn phần mộ những người quá cố, cúng tiền và hoa quả để cầu mong sự bình an cho những người đã khuất. Đặc biệt, các chư Tăng Phật Tử còn tổ chức các buổi lễ cầu nguyện cho những người quá cố suốt ngày lẫn đêm. Người dân Trung Quốc tin rằng việc cúng bái và cầu nguyện trong ngày lễ Vu Lan sẽ mang đến bình an và cầu mong những điều tốt đẹp sẽ đến trong tương lai.