Phụ lục - tư liệu của tập thơ: Hát mộc với biển đảo và những bài thơ khác (Trần Xuân An) -- Nxb. Thanh Niên, 2012

        

Ảnh bìa lớn hơn

Phụ lục tập thơ:

Trần Xuân An, “HÁT MỘC VỚI BIỂN ĐẢO VÀ NHỮNG BÀI THƠ KHÁC”,

Nxb. Thanh Niên, 2012.

 

Tư liệu

HOÀNG SA – VẠN LÍ TRƯỜNG SA TRONG

ĐẠI NAM THỰC LỤC TIỀN BIÊN & CHÍNH BIÊN,

ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ

 

I. ĐNTL.TB. & CB.:

Bắc Hải: 164 (T.1)

Hoàng Sa: 164 (T.1); 898 (T.1); 743 (T.3); 673, 867, 1058 (T.4), 749 (T.6)

Trường Sa: 126 (T.1) [không kể 85, 88]; 164 (T.1)

II. ĐNNTC.:

Bắc Hải, Hoàng Sa, Trường Sa: 422 - 423, 450 - 454 (T.2).

 

A.

 

1) ĐNTL.TB., quyển VIII (bản dịch VSH., tập 1, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2002, tr. 126):

Năm 1711 (Hiển tông Hiếu minh hoàng đế Nguyễn Phúc Chu – Quốc chúa):

“Sai đo bãi cát Trường Sa dài ngắn rộng hẹp bao nhiêu”.

 

2) ĐNTL.TB., quyển X (bản dịch VSH., tập 1, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2002, tr. 164):

Năm 1754 (Thế tông Hiếu vũ hoàng đế Nguyễn Phúc Nguyễn Phúc Khoát – Võ vương):

“Mùa thu, tháng 7, dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió, dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho, rồi cho đưa về. Chúa sai viết thư [cám ơn]. (Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát, cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là “Vạn lý Trường Sa”. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, ba ba… Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương (*) sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản).

(*) Cảnh Dương thuộc tỉnh Quảng Bình (TXA. chú thích, đối chiếu với “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, bản dịch Lê Xuân Giáo, tập 1, UBDT. PQVK. ĐTVH. – SG., 1972, tr. 202 - 204; 208 - 212).

 

3) ĐNTL.CB., quyển L (bản dịch VSH., tập 1, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2002, tr. 898):

Năm 1815 (Thế tổ Cao hoàng đế Nguyễn Phúc Ánh – Gia Long):

“Sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển”.

 

4) ĐNTL.CB., quyển CIV (bản dịch VSH., tập 3, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2007, tr. 743):

Năm 1833 (Thánh tổ Nhân hoàng đế Nguyễn Phúc Đảm – Minh Mạng):

“Vua bảo Bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường [mắc cạn] bị hại! Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời””.

 

5) ĐNTL.CB., quyển CLIV (bản dịch VSH., tập 4, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2007, tr. 673):

Năm 1835 (Thánh tổ Nhân hoàng đế Nguyễn Phúc Đảm – Minh Mạng):

“Dựng đền thờ [ở đảo] Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi.

Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lý ba bình” (*) (cồn Bạch Sa [cát trắng] chu vi 1070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than thạch). Năm ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mươi ngày làm xong, rồi về”.

(*) Muôn dặm sóng yên (VSH. chú thích).

 

6) ĐNTL.CB., quyển CLXV (bản dịch VSH., tập 4, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2007, tr. 867):

Năm 1836 (Thánh tổ Nhân hoàng đế Nguyễn Phúc Đảm – Minh Mạng):

“Bộ Công tâu nói: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về, dâng trình”.

Vua y lời tâu. Sai suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính thân, Thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ” (dịch)”.

 

7) ĐNTL.CB., quyển CLXXVI (bản dịch VSH., tập 4, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2007, tr. 1058):

Năm 1836 (Thánh tổ Nhân hoàng đế Nguyễn Phúc Đảm – Minh Mạng):

“Bính thân, Minh Mệnh năm thứ 17 [1836], mùa đông, tháng 12. Thuyền buôn Anh Cát Lợi đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định.

Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua nói: “Họ vốn tính kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hóa, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen”. Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người một áo đoạn vũ hàng màu, một quần vải tây và chăn vải; các người tùy tùng mỗi người một bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.

 

8) ĐNTL.CB., quyển XLIX (bản dịch VSH., tập 6, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2007, tr. 749):

Năm 1845 (Hiến tổ Chương hoàng đế Nguyễn Phúc Miên Tông – Thiệu Trị):

“Ngũ đẳng thị vệ Nguyễn Hoán được phái đi đến Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi, tự tiện quấy rối các làng.

Người cùng phái đi nêu ra để hặc. Hoán phải tội lưu đến hết bậc”.  

B.

 

9) ĐNNTC., bản dịch VSH., tập 2, Nxb. Thuận Hóa, 1994, tr. 422 - 423 & phụ lục: tr. 450 - 454:

“Đảo Hoàng Sa: ở phía đông cù lao Ré huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ đi thuyền ra, thuận gió thì độ ba bốn đêm ngày có thể đến nơi. Có đến 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc một ngày đường, hoặc mấy trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm (*), bằng phẳng, rộng rãi, tục gọi là “Vạn lí Trường Sa”; nước rất trong, trên bãi có giếng nước ngọt, chim biển tụ tập không biết cơ man nào. Sản nhiều ốc hoa, hải sâm, đồi mồi, vích, cùng những hàng hóa của thuyền người Thanh bị bão, trôi giạt vào đấy.

Hồi đầu bản triều, đặt đội Hoàng Sa, có 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm, cứ tháng 3 là ra biển tìm kiếm hải vật, đến tháng 8, thì do cửa biển Tư Hiền về nộp; lại đặt đội Bắc Hải, do đội Hoàng Sa kiêm quản, để đi lấy hải vật ở các đảo.

Phía đông đảo Hoàng Sa gần phủ Quỳnh Châu đảo Hải Nam nước Thanh.

Đầu đời Gia Long phỏng theo lệ cũ, đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đấy thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam cồn có ngôi miếu cổ, không rõ dựng từ thời nào (**), có bia khắc bốn chữ “Vạn lí ba bình” (Muôn dặm sóng yên). Đảo này xưa gọi là núi Phật Tự, phía đông và phía tây đảo đều là đá san hô, mọc vòng quanh ở mặt nước; về phía tây bắc tiếp với đá san hô nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước ngang với cồn cát, gọi là đá Bàn Than. Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân”. 

(*) Theo trích đoạn từ sách của Nguyễn Thông, “Việt sử cương giám khảo lược” (q.4); VSH. trích thêm làm phụ lục, ĐNNTC., tập 2, sđd., tr. 451: “Bãi cát giăng từ phía đông mà sang phía nam, chỗ nổi lên, chỗ chìm xuống, không biết mấy nghìn dặm”.

(**) Tức là các đời chúa Nguyễn hồi “quốc sơ”, “hồi đầu bản triều” (xem ĐNTL.TB., quyển VIII…).

 

Trần Xuân An 

sưu tập, gõ phím – 28-10 HB11 (2011)

Đã in trong phụ lục tập thơ: Trần Xuân An, “HÁT MỘC VỚI BIỂN ĐẢO VÀ NHỮNG BÀI THƠ KHÁC”, Nxb. Thanh Niên, 2012.

 

 

Ảnh sách lớn hơn

HÁT MỘC VỚI BIỂN ĐẢO

& NHỮNG BÀI THƠ KHÁC

đã được ấn hành

14-02 hb12 (2012)

_____________________________________ 

 

 

 

Google Sites /  host

WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE