j. Trần Xuân An - Ngẫu hứng đọc thơ - Sáng tạo & tiếp nhận đồng sáng tạo - Tệp 10

author's

copyright

trần xuân an

ngẫu hứng đọc thơ

 

 

phê bình thơ

Nxb. Văn Nghệ TP.HCM., 2005

06/30/09

 

 

Bài 1

 

Bài 2

 

Bài 3

 

Bài 4

 

Bài 5

 

Bài 6

 

Bài 7

 

Bài 8

 

Bài 9

 

Phụ lục 1

 

Phụ lục 2

 

                             

        

   Phụ lục 1

 

MỘT VÀI YẾU TỐ TRONG SÁNG TẠO

& TIẾP-NHẬN-ĐỒNG-SÁNG-TẠO

 

Trong văn chương, cả trong nghệ thuật nói chung, không hiếm trường hợp tác giả bị (hoặc được) đồng nhất với nhân vật, tâm trạng tác giả đồng nhất với tâm trạng trữ tình trong tác phẩm. Tố Như đồng nhất với Kiều, Ôn Như Hầu đồng nhất với cung nữ, Đặng Trần Côn đồng nhất với chinh phụ, thậm chí có tác giả đồng nhất với loài vật như Thế Lữ với con hổ, vân vân, có thể là những suy diễn có lí, cũng có thể rất khiên cưỡng (*). Nhưng Nguyễn Bính và Nguyễn Nhược Pháp không thể là thôn nữ “lỡ bước sang ngang” và cô bé đi chùa Hương! Tuy nhiên, sự đồng cảm hoặc cảm thông sâu sắc giữa tác giả với nhân vật trữ tình, kể cả cái tôi khách thể được biểu hiện dưới dạng tự biểu hiện (như Lời kĩ nữ của Xuân Diệu, đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, vốn được xem là một bài thơ hoàn chỉnh rất hiện đại, của Nguyễn Du), vẫn là điều tất nhiên, mặc dù tác giả là tác giả, nhân vật là nhân vật, cái tôi tác giả khác với cái tôi trong tác phẩm, đối chiếu và kiểm xét trên mọi mặt.

Ở tất cả mọi trường hợp, mọi tác giả đều tự nội quan, tự nghiền ngẫm từng ngóc ngách vi tế của thế giới chủ thể bên trong và suy nghiệm thế giới khách thể bên ngoài từ sự quan sát, tiếp xúc, cọ xát với đủ mọi tầng lớp người, mọi quan hệ xã hội – tự nhiên, để có thể vận dụng vào quá trình hư cấu, sáng tạo. Tuy nhiên, từ đó, cũng làm sao có thể đồng nhất hoá nhân vật, tâm trạng trữ tình với đời riêng của tác giả, tâm trạng của tác giả theo sự suy diễn chủ quan!

Nếp cảm nhận đồng nhất hoá ấy cố nhiên đã ít nhiều ràng buộc, kìm hãm sự tự do sáng tạo, khả năng, tiềm lực sáng tạo của biết bao nghệ sĩ. Có lẽ cần xác định rõ những ranh giới khá mơ hồ của các phương thức phản ánh. Đó là một việc quá khó trong thực tiễn viết và đọc. Bởi lẽ, làm sao biết được đúng và đủ mọi ngóc ngách sâu kín với nhiều nghịch lí phức tạp, nhiều biến thiên kì quái lạ lùng của tâm thức, kể cả vô thức của con người! Chưa kể, nhiều tác giả mạnh dạn thể hiện cái dục vọng phổ quát một cách tự nhiên chủ nghĩa, khai thác cái bản năng trắng trợn và ẩn kín, chạy trốn cái tôi thực hữu và hiện thực xã hội để ẩn núp vào mịt mù bí hiểm, siêu thức và siêu thực, như một khám phá, sáng tạo, đổi mới, như một thoát li thực tại, hoặc nhằm mục đích hạ bệ Con Người (viết hoa) với ý đồ ngoài nghệ thuật. Tuy nhiên, trong tầm nhìn cởi mở, không nên cảm nhận nghệ thuật một cách máy móc. Đâu là tái hiện trung thực, lạnh lùng? Tái hiện lãng mạn? Đâu là lãng mạn thuần chất? Viễn tưởng? Hoài niệm? Dự phóng? Thần tiên? Đâu là tái hiệp bóp méo, cường điệu kiểu biếm hoạ? Bôi đen? Tô hồng? Lấy cái cá biệt làm cái điển hình? Đâu là chỗ đứng và tâm thế của người phản ánh trong một thời điểm nhất định? Chính các tác giả cũng mơ hồ về bản thân, bởi có ai hiểu hết thế giới bên trong của chính mình, nữa là người đọc và người nghiên cứu! Vô thức, tiềm thức thường xuyên tham dự vào quá trình sáng tạo là một lẽ. Lẽ khác, chính các tình tiết cấu tạo nên tác phẩm, ngoài việc thể hiện tầng nghĩa cơ bản, còn tự chúng tạo nên nhiều lớp nghĩa khác. Lẽ khác nữa, người đọc đã đồng sáng tạo trong quá trình tiếp xúc với hình tượng bằng cả con người mình. Và, bản thân hình tượng như một thực thể sống mà tài năng của nghệ sĩ chỉ ghi nhận, tái tạo hoá theo cách riêng của mình và dẫu muốn cũng không thể thấu hiểu đến mức tận cùng của thực thể ấy! Như bất kì thiên tài nào khác, Nguyễn Du chắc chắn sẽ bật ngửa trước phát hiện của người thưởng ngoạn thuộc vạn thế hệ sau ông, khi họ thưởng thức tác phẩm của ông! Cũng như đối với trường hợp Nguyễn Du, người đọc có thể không chia sẻ, đồng ý, đồng tình với tư tưởng triết luận của Lép Tôn-xtôi (Léon Tolstoi) nhưng những hình tượng nghệ thuật mãi mãi chinh phục người đọc ở mọi không gian, thời gian và mãi mãi mời gọi khám phá, sáng tạo. Hình tượng Yê-su (Jésus Christ) trong Kinh thánh cũng vậy. Nhiều nghệ sĩ đã tiếp nhận hình tượng này không giống nhau, ngay cả nhận thức của nhiều giáo sĩ, giáo phái Ki-tô (Christo) cũng khác nhau! Có thể nói thế này được chăng, tác giả dù sinh nở, tạo hoá ra hình tượng, nhưng bản thân hình tượng vẫn có những tầng nghĩa khách quan mà tác giả không ngờ đến?

Nếu quả thật như vậy, nghệ sĩ sáng tác bị đặt vào thế phải thường xuyên chỉnh đốn, cải thiện tâm thức, thường xuyên tu tâm, thường xuyên soát xét các giác quan (ngũ quan, lục thức) dù dấn thân, nhập thân vào tận cùng thực tế cuộc sống trong giới hạn cho phép, như một cách cải tạo và cảnh giác các mầm độc do tập nhiễm hoặc do bản năng gốc mang tính phổ quát của sinh vật. Phải chăng đấy chính là phương thức cốt tuỷ của các thiền sư? – Thường xuyên quét bụi, tắm rửa tâm linh? Thường xuyên làm vệ sinh vô thức, tiềm thức? –. Phải chăng, từ đấy mà tạo được thần sắc, thần tướng cho một và nhiều Cái Đẹp nghệ thuật của các nghệ sĩ và ngay trong phong thái nghệ sĩ? Tu tâm và tu tài phải là một nỗ lực suốt đời thì nào ai dám tự bảo mình đã thành chánh quả trong nghệ thuật! Ngay trong tác phẩm của nhiều bậc thánh, nhiều hiền giả cũng còn nhiều tì vết đạo hạnh và hạn chế lịch sử đáng nói! Vấn đề ý tại ngôn ngoại dù có ý thức hay không ý thức, quả lắm vấn đề, trong đó có vấn đề trách nhiệm đối với người đọc. Phải chăng một nền văn hoá, văn nghệ sinh động phải luôn được phê bình và tự phê?

Cần được thông cảm như vậy để bớt đi những ngộ nhận, những trói buộc bởi định kiến. Và nghệ sĩ cũng không muốn tung hoả mù vào tác phẩm và thẩm thức!

Khuynh hướng chung toát ra từ tác phẩm mới đích thực là một hoặc tất cả các khía cạnh tư tưởng, tình cảm và lí tưởng thẩm mĩ (bao gồm quan niệm về chân và thiện) của tác giả. F. Ăng-ghen (Fridrich Engels) cũng đã từng nói thế.

 

Tp. Hồ Chí Minh, 1996.

TRẦN XUÂN AN

 

(Bài đã đăng trên tuần báo Văn Nghệ TP. HCM.,

số 9/98, 02. 04 – 08. 04. 1998

& trên tạp chí Cửa Việt, số 42 [03. 1998]).

 

 

 

(*) Trường dụ là ẩn dụ xuyên suốt cả tác phẩm, chứ không chỉ ở một câu, một đoạn. Trong các trường hợp này, Kiều, cung nữ, chinh phụ, con hổ được xem như ẩn dụ phát triển thành trường dụ.

 

E-mail: tranxuanan_vn@yahoo.com

Cập nhật 06/30/09                                                                    Trở về trang chủ

                                                                 

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01-5 HB7 (2007) = 15-3 Đinh hợi HB7