i. Trần Xuân An - Nguyễn Văn Tường (1824-1886), một người trung nghĩa - Tệp 9

 

trần xuân an

Nguyễn Văn Tường,

những người trung nghĩa từ xưa,

tưởng không hơn được

   author's copyright

07/01/09

 

A.

 

Lời thưa

 

Bài 1

 

Bài 2

 

Bài 3

 

Bài 4

 

Bài 5

 

Bài 6

 

 

B.

 

Phụ lục 1

 

Phụ lục 2

 

Phụ lục 3

 

 

C.

 

Ngoài sách

 

Cuối sách

 

 

____________

____________

 

Hình ảnh 1

 

Hình ảnh 2

 

Bản đồ

 

 

 

 

 

 

 

                             

  

TRẦN XUÂN AN

 

NGUYỄN VĂN TƯỜNG,

“NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA

TỪ XƯA,

TƯỞNG KHÔNG HƠN ĐƯỢC”

 

 

KHẢO LUẬN VỀ MỘT VÀI KHÍA CẠNH SỬ HỌC

 

 

 

 

  

Nhà Xuất bản

2003

(trước và chính xác là từ 02-7-2002)

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

48. Vụ Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi, đầu tháng 7 Ất dậu (tháng 8.1885):

 

“… Bình Sơn tả vệ hương binh chánh quản là cử nhân Lê Trung Đình, hữu phó quản là bọn tú tài Nguyễn Tự Tân, Vũ Hội [thuộc võ hội hương binh? – TXA. ct.], và thương biện Nguyễn Văn Hoành cho rằng, xe vua đã ra, lại nghe có Dụ Cần vương, muốn nhân đó dấy quân, tức thì tới tỉnh xin cấp khí giới, lương xướng. Tỉnh thần cho rằng lính hương binh chi canh giữ nơi làng xóm, không ví với lính tỉnh được, không dám tự tiện cấp, đợi chạy giấy mời những quan viên tại quán [quan hưu trí – TXA. ct.] bàn nghĩ sẽ làm. Bọn Đình, Tân bèn chia phát binh phu làm 3 đạo, tất cả hơn 3.000 tên. Trước ngày mồng 2 tháng này, tiến đến tỉnh thành, hiệp quản Trần Tu, thành thủ úy là Nguyễn Côn mở cửa nội ứng, bọn ấy sấn vào tỉnh thành, đem hai viên bố, án ra thành giam trói, thu lấy ấn triện, binh trượng, tiền lương, buông tha tù phạm, trước chém một tên suất đội, 2 tên dân đạo, cất nguyên Tuy Lý vương Miên Trinh (nguyên được giáng tước công, an trí ở trong tỉnh thành này) làm phụ chính quốc vương. Miên Trinh không theo, giả làm có bệnh nằm lỳ không dậy. Bọn ấy bèn đặt những danh chức ngụy là thống đốc, tham tán, đề đốc, lãnh binh, đốt nhà và giết chết dân giáo, làm việc ngang ngược không kiêng nể ai. Quyền tiễu phủ sứ ở Sơn phòng Nghĩa Định là Nguyễn Thân báo với tổng đốc Bình – Phú là Lê Thận (Thận đã ủy cho án sát Bình Định là Lê Duy Cung đi cùng Sơn phòng họp làm), ủy cho Đinh Hội đem hơn 900 biền binh tiến tiễu. Ngày mồng 5 tháng ấy, đến tỉnh chia quân sấn vào thu phục tỉnh thành và ấn triện bố, án, bắt sống được Trung Đình, và giết được bọn Tự Tân tất cả 7 tên, còn dư đều trốn chạy, bèn đưa 2 viên phiên, niết về dinh, tiễu phủ sứ ấy tức thì ủy cho mời các quan viên ở quán (nguyên Lễ bộ thượng thư là Đỗ Đệ, thự đốc Bình – Phú là Nguyễn Trọng Biện [Nguyễn Hiệp – TXA. ct.], tuần phủ Nam – Ngãi là Đoàn Nhượng, biện lý Công bộ là Vũ Duy Tĩnh (nguyên cũ là Văn Thanh)) họp bàn, và tư bàn với tuần phủ Nam – Ngãi là Nguyễn Ngoạn, quyền lưu 2 phiên, niết nhận ấn làm việc, để chờ mẹânh Triều đình, và Trung Đình, chém ngay; rồi người ta báo cho Hộ bộ lang trung biết. […].

Đến đây Cơ mật viện cho rằng Sơn phòng ấy sớm làm tắt được ngòi cơ biến, nghĩ chuẩn theo đặc cách thưởng cất cho Đinh Hội, Nguyễn Thân để tỏ sự khuyến khích. Còn bọn dư đảng nguyên đi theo Trung Đình đã tan về thì miễn khỏi cứu xét” [*].

 

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,

1976, tr. 238 – 239).

                            

[*] Vụ Quảng Ngãi (Lê Trung Đình) và vụ Bình Định (Đào Doãn Địch) khác nhau về “ngọn cờ khởi nghĩa”. Lê Trung Đình tôn phù Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ hoàng tộc chủ “hòa”, câu kết với Pháp thời Hiệp Hòa, vốn bị đày vào Quảng Ngãi (mặc dù Miên Trinh từ chối); do đó Nguyễn Văn Tường đánh giá đấy là cuộc “nổi loạn” duy nhất (ĐNTL.CB, tập 36, sđd., tr. 233 – 234). Đào Doãn Địch chỉ thuần hưởng ứng Dụ Cần vương, “bình Tây sát tả” (đánh Pháp và đánh bọn dữu dân trong giáo dân, vốn đích thực là tay sai của thực dân), nên ngầm được ủng hộ (mặc dù De Champeaux thúc giục đánh dẹp), và cuối cùng là được “rộng tha”. Xin xem lại: bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885”. TXA.

 

49. Vụ Bình Định, tháng 7 Ất dâïu (tháng 8.1885):

 

“… Tháng trước, thân hào tỉnh ấy cũng nghe hành tại có Dụ Cần vương, mưu dấy quân, bèn họp đem những lính kinh tan về và lính dõng ở dân đốt phá nhà đạo, dìm giết giáo dân, rồi đem binh dân ước hơn vạn người, quanh tới tỉnh thành, yêu cầu cấp cho khí giới (đã bách giám đốc thần là Lê Thận lại cho về dinh), ngụy đặt những danh mục đề đốc, tham tán, lại đi khắp trong hạt giết dân giáo, mộ lính dõng, nói phao lên tiến đánh quân Pháp ở cửa Thi Nại. Khâm sứ Pháp là Tham-bô bàn phái cho khâm sai đã mẹânh, cho Binh bộ tham tri Hoàng Hữu Thường sung phái ngồi tầu thủy Pháp chạy đi. Lúc đó vì đường ngăn trở, phải trở về. Khâm sứ Pháp lại bàn tục phái đổi sai thị lang Bộ Lễ là Ngô Trọng Tố (lãnh bố chính sứ tỉnh ấy về trước, tình thế đã am hiểu) rồi vì đường dịch lộ Quảng Ngãi không đi được, lại sai lãnh bố chánh sứ Quảng Nam là Bùi Tiến Tiên (nhưng lấy án sát Hà Thúc Quán quyền sung bố chánh sứ Quảng Nam, Hồng lô tự khanh về nuôi cha mẹ, là Nguyễn Duy Hiệu sung làm án sát sứ). Thự thống chế Ngô Tất Ninh sung chánh phó khâm sai quản đem quan binh 2 tỉnh Nam – Ngãi 700 tên đi ngay đến, họp làm, đều nhân đường ngăn trở chưa đi được.

Đến đây thự tổng đốc là Lê Thận tâu nói: “Đã họp văn thân quan viên trong hạt ấy hiểu dụ. Bọn ấy đã tản về, xin nên rộng tha, cho yên sự phản trắc …” […].

“… […] Nếu còn giữ thói mê, do các quan đô thống, khâm sai đem đại đội quan binh, không kể lương hay giáo, cũng phải đau lòng đánh dẹp…” ”.

 

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,

1976, tr. 241 – 242).

 

50. Dụ của Từ Dũ và 2 cung, đánh giá cao cuộc Kinh Đô Quật Khởi, tháng 7 Ất dậu (cuối tháng 8 bước sang đầu tháng 9.1885):

 

“… Từ điều ước tái định [Patenôtre – TXA. ct.] đã được phân minh, khiến nước Pháp trước tự bại hòa gây biến, thì phàm ai ở đất vua, cũng đều thù ghét  [giặc Pháp – TXA. ct.], ai bảo là không nên. Không gì bằng cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay …”.

                            

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,

1976, cuối tr. 244).

                             

51. Dụ của 3 cung về vấn đề lương, giáo phục thù, ít hôm trước ngày Nguyễn Văn Tường bị bắt, cuối tháng 7 Ất dậu (đầu tháng 9.1885):

 

“… Đến đây lại lấy hai bên bình, giáo còn chưa yên, lại dụ thêm rằng:

“Bình, giáo dù có khác lỗi, nhưng đều là con đỏ của Triều đình, không nên chia rẽ khác nhau. Gần đây, có nhiều việc giống nhau và khác nhau. Người làm dân lương ghét vì không đồng đạo [không cùng đạo thờ kính anh hùng dân tộc, thờ kính tổ tiên lâu đời của người Việt Nam – TXA. ct.] mà trong lòng sinh nóng lạnh. Người làm dân giáo, cậy thế [thực dân Pháp, cố đạo Pháp – TXA. ct.] lấn át, mà tình ruột thịt đem đặt ra ngoài da. Hai đằng ghét nhau thì hai đằng hẳn thù nhau, thì thế cố nhiên như thế. Nhưng xét kỹ ra thì đầu đuôi cũng tự người đầu mục không khéo xử trí cho nên nỗi ấy. Ôi! Nhà nước dựng nên quan tư mục, cốt để trị dân. Làm sư đạo của dân một địa phương, phải nên giữ lòng minh chính. Hoặc có kẻ bị ghét quá đáng, một khi kiện cáo, gia thêm nạt nộ mà dân giáo uất ức không bày tỏ được. Hoặc sợ hơi nóng bốc lên, gặp có sự lăng ngược, một chiều nín náu, mà ẩn tình của người dân lương không bày được. Làm giám linh mục ấy, trách nhiệm giảng giáo, phải nên giữ lòng công bình. Bình dân hoặc có kẻ trốn tránh dao thuế, mà chạy vào nhà giáo ấy, hoặc có kẻ tranh chiếm ruộng đất mà nhờ thế ấy, đều bao dung cả. Đến nỗi, có kẻ cậy thế mà bức bách người, hoặc có kẻ khinh thường pháp luật mà không đoái, đều không phải là sở ý của Thiên Chúa dạy dân. Kẻ bình dân kia sao không nghĩ cùng ở đất vua, đều là dân vua, giáo dân bình nhật binh đao thuế khóa cùng với lương dân cùng thế. Gián hoặc bức hiếp bình dân vì lẽ gì, sao không tới địa phương quan mà tố cáo, mà dám hại nhau, ngược đãi nhau ngang trái như thế, đối với pháp luật thực khó dung. Giáo dân ấy sao chẳng nghĩ sinh ở đời này, tam giáo cửu lưu, đều có đạo cả, nào ai có cấm đâu mà bèn mượn thế lấn người, đến nỗi chứa bao thù oán, lòng sao nỡ thế. Ôi! Giáo đã không dung được lương, thì lương cũng không cam tâm chịu thua giáo, phải đến tranh nhau, khiến cho trong chốn làng xóm, không lấy ơn lễ ở với nhau mà lại trông nhau như thù nghịch. Giết người, đốt nhà, tội có nhỏ đâu, mà lại đem thêm thử pháp luật như việc gần đây xảy ra ở Bình Định và Quảng Ngãi, rất là quái gở, đáng giận, cần nên tỏ rõ điển hình để răn bảo. Nhưng nghĩ bọn ngươi một khi giận dỗi, dám làm điều trái đạo, rồi hay cải hối được; nếu chẳng uốn nắn cầu toàn, hẳn đến ngọc đá đều cháy; trong lòng ta thực không nỡ thế, đã chuẩn gia ơn cho miễn sự tra xét một lần.

Từ này nên hậu tình hòa hảo, không nên ghen ghét lẫn nhau. Làm người coi địa phương phải ngay sáng để xướng xuất, mà sự oan uổng cần được thân lý; làm giám linh mục phải công bằng để dạy dỗ, mà sự ghen ghét phải bỏ đi; khiến cho cùng thuận, cùng giúp, cùng phù trì nhau, hai bên hoà thuận thì còn gì vui bằng. Nếu không khéo khu xử, đều tự thù hằn nhau, thì đều có tội để xử. Địa phương quan, chiếu theo lệ nịch chức nghiêm trị. Giám linh mục, tư sang nước Pháp nghĩ xử. Đều nên kính cẩn nhé! Thông lục đều tuân”. …”.

 

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,

1976, tr. 245 – 246).

                            

52. Bản án của thực dân Pháp về Nguyễn Văn Tường, do De Courcy, De Champeaux cáo thị, ngày 27.7 Ất dậu (05.9.1885):

 

“Đô thống Đại Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy – TXA. ct.] bắt thái phó, Cần Chánh điện đại học sĩ, lãnh Lại bộ thượng thư, kiêm sung Cơ mật viện đại thần, Kì Vĩ quận công, là Nguyễn Văn Tường xuống tàu thủy chạy đi Gia Định.

Cứ theo lời cáo thị của khâm sứ Tham-bô [De Champeaux – TXA. ct.] nói: Văn Tường từng đã chống cự nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.] thực đã nhiều năm. Từ khi cùng Tôn Thất Thuyết sung làm phụ chánh, chỉn [: vốn – TXA. ct.] lại đổng suất quan quân nổi dậy công kích quan binh nước ấy  [nước Pháp – TXA. ct.]; và Văn Tường do đô thống ấy xin [chính phủ Pháp – TXA. ct.] cho hai tháng [nhằm để – TXA. ct.] lo liệu việc nước cùng Bắc Kỳ cùng được lặng yên vô sự;  [kì thực – TXA. ct.] đến ngày 27 tháng ấy hết hạn, mà các tỉnh Tả kỳ về phía nam, có nhiều nơi nổi quân chém giết dân giáo. Đến đây đô thống ấy định án, ƯNG [:NÊN ; PHẢI – TXA. ct.] kết tội lưu.

Hôm ấy chở đem Văn Tường đến cửa biển Thuận An. Buổi chiều Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình đi tàu thủy Pháp cũng về đến cửa biển ấy.

(Thuyền Pháp chở Văn Tường đến Gia Định, sau chở gồm cả Phạm Thận Duật, Lê Đính đem về nước ấy [thuộc địa Tahiti – TXA. ct.]; Thận Duật trong khi đi đường bị ốm chết ở trong tầu, buông xác xuống biển) …”.

 

(ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,

1976, tr. 247).

                            

@ @ @ @ @ @

       

53. Trích phàm lệ của kỉ đệ lục: VIẾT SỬ THEO TIÊU CHÍ NGƯỢC:

 

“Phàm lệ phụ biên ở kỷ đệ ngũ, trong đó có một điều chép rõ: từ ngày 23 tháng 5 năm Hàm Nghi nguyên niên, sau khi kinh thành có việc, đến ngày 10 tháng 8 trở về trước, xe vua dời đi, trong, ngoài không hệ thuộc được, và tự ngày 10 tháng ấy trở về sau đến cuối tháng 9, Cảnh tông Thuần hoàng đế [vua ngụy Đồng Khánh – TXA. ct.] ta tuy đã nối ngôi, nhưng tuyên bố dụ bảo, sợ chưa biết được khắp, niên hiệu vẫn còn chép là Hàm Nghi; về việc Nam – Bắc có vâng theo dụ của vua Hàm Nghi, mà khởi việc cần vương thì đều hãy chép làm “khởi binh”, để có cớ mà nói. Còn tự mồng 1 tháng 10 năm Đồng Khánh Ất dậu trở về sau, ngôi lớn định đã lâu, dụ bảo chắc đã biết khắp cả, mà còn làm liều, thì ở kỷ đệ lục kỷ sẽ lại chép là nghịch; đã được chuẩn cho lục ra để chép vào.

Nay hai tháng 8 và 9 năm Hàm Nghi nguyên niên [tức là tháng 8 và tháng 9 âm lịch, năm Ất dậu (1885) – TXA. ct.], là còn thuộc vào phận tháng của kỷ ấy, cũng vẫn theo thế chép là khởi binh; còn từ mồng 1 tháng 10, là năm Đồng Khánh Ất dậu trở về sau, thì mới chép là nghịch”.

       

(ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”,

tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 15 – 16).

                            

54. Quốc thư gửi Chính phủ Pháp của ngụy triều Đồng Khánh, tháng 8 Ất dậu (tháng 9.1885):

 

“… Quyền thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết […].Ngày 23 tháng 5 năm nay, kinh thành thất thủ, xe tiên đế dời đi, hai người ấy thực là căn nguyên của tai vạ […]”.

 

(ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”,

tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 33).

                            

55. Bản án chung thẩm của ngụy triều Đồng Khánh (có chữ kí của De Courcy) về Nguyễn Văn Tường và 3 thành viên khác của nhóm chủ chiến Triều đình Huế, tháng 8 Ất dậu (tháng 9.1885):

 

“Tôn nhân phủ và đình thần dâng sớ tâu bày tội trạng của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, xin tước hết quan tước và tịch thu gia sản; tham tri Trương Văn Đễ đã quá cố, và chưởng vệ Trần Xuân Soạn, đều là bè đảng làm loạn, cũng tước cả quan chức. Trong bọn ấy, thì Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, xin do quan địa phương xét bắt bằng được và chém ngay, để tỏ rõ hiến pháp trong nước. Vua nghe theo”.

 

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,

1977, tr. 35).

                            

56. Dụ của Đồng Khánh (do khâm sứ thực dân Hector, Nguyễn Hữu Độ hợp soạn, Đồng Khánh chỉ sửa chữa lại), niêm yết khắp các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, tháng 02 Bính tuất (tháng 3.1886):

 

“… Duy trẫm tin là các sĩ phu, thực tình là nhận nhầm, chứ không có lòng làm loạn; Triều đình đã đem đầu mối họa loạn, là tự Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết gây ra, nói rõ ràng với quan Đại Pháp, đã tin không ngờ, để cho Triều đình ta phải xử trí ngay, cho lương, giáo đều được yên ổn …”.

                                    

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,

1977, tr. 134).

                            

57. Cáo thị của ngụy triều Đồng Khánh (do hai khâm sai Phan Liêm, Phạm Phú Lâm hợp soạn, Đồng Khánh tự sửa định), niêm yết khắp các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, tháng 02 Bính tuất (tháng 3.1886):

 

“… Nay Lê Thuyết [Tôn Thất Thuyết – TXA. ct.], trốn tránh ở rừng gập ghềnh, một thân tuy nhỏ, mà coi đất trời như còn hẹp; Nguyễn Văn Tường thì đã bị đi đày; tức là trời trừ kẻ tật ác; huống chi tai ách 10 đời, [mà Quang Vũ trung hưng – VSH. ct.]; con của Tấn công có 9 người, [mà còn được Tùng Nhĩ – VSH. ct.]; xem ý trời cũng có thể biết. Trẫm cùng bọn ngươi, phải nên hết sức lo toan khôi phục lại, để lại thấy được cảnh tượng thái bình như xưa. Không ngờ bọn ngươi [tức là các sĩ phu, nhân dân – TXA. ct.] theo ý làm liều, hoặc bức đuổi quan tỉnh, hoặc đốt phá phủ, huyện, kháng cự mệnh lệnh Triều đình, cam tâm hết lòng trung với kẻ thù [tức là Hàm Nghi, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, nhưng theo mạch văn, thì chỉ nhắm đến hai phụ chính – TXA. ct.], từ Hải Vân trở vào nam, không chỗ nào là không loạn [khởi nghĩa – TXA. ct.], rất đáng quái lạ; sao không xem châu Hoan, châu Diễn, Quảng Bình, Quảng Trị (*), mượn tiếng là xướng nghĩa, cần vương, đều đem thân bón cho đồng cỏ, mười nhà thì chín nhà hết sạch; còn những kẻ lọt lưới, thì bị mưa độc, khí núi, liền hóa làm giống sâu ở cát, tức như tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn là thủ xướng, phải giải quân trốn xa, thám hoa Nguyễn Đức Đạt phải đến tỉnh đầu thú; đã thấy được đại khái …”.

 

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,

1977, tr. 138 – 139).

                            

(*) Xem Jabouille, bài “Một trang viết về lịch sử tỉnh Quảng Trị: tháng 9.1885”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1923), bản dịch, tập X, Nxb. Thuận Hoá, 2002, tr. 434, 439… Xin đối chiếu với ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 26 – 27, tr. 39 – 40, tr. 54, tr. 60, tr. 124 – 125, tr. 130, tr. 162 – 164, tr. 176 – 177, tr. 178 – 180, tr. 186, tr. 192 – 193.

 

58. Theo lệnh Pháp, ngụy triều Đồng Khánh và Nguyễn Hữu Độ, cùng với Phan Liêm, Phạm Phú Lâm tuyên truyền bôi nhọ nhằm triệt hạ uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến, để dập tắt phong trào Cần vương, nên đã bị sĩ phu, nhân dân phản ứng, tháng 11 Bính tuất (tháng 12.1886):

 

“Phó khâm sai Tả trực kỳ là Phạm Phú Lâm chịu tội.

Phú Lâm đến Đà Nẵng, được 10 ngày dâng tập tâu: “Bọn giặc [quân Cần vương, ngụy triều Đồng Khánh gọi là “giặc”!!! – TXA. ct.] đưa giấy bắt họ thân và bắt được vợ y, làm đủ hình ác; xin tự trói về kinh đợi tội”; lại lục tư cho Viện Cơ mật, nói: “Giặc hiện bắt xã thôn ấy chỉ dẫn phần mộ tổ tiên của y, nếu để chậm, tất đến mắc vạ; bèn không đợi chỉ, lập tức đáp thuyền về kinh, đến Viện Cơ mật, xin đến Bộ Hình đợi tọâi” (*).

Tập tâu ấy, Viện thần hiện đương nghĩ biên phiếu tâu lên hặc tội, nói: “Phú Lâm không đợi chỉ chuẩn cho, dám tự tiện về, đi lại ở thành thị, không lo sợ chút nào, coi pháp lệnh Triều đình như trò trẻ con, sau này, người khác trông thế bắt chước, thì thành sự thể gì. Xin trước hết giải chức, xích lại giao cho Bộ Hình nghiêm nghĩ, để chỉnh đốn phép làm tôi”.

Vua chuẩn y lời tâu. Sau Bộ nghĩ, xin xử tội 100 trượng, cách chức, không được bổ dụng. Vua cho nghĩ xử ấy là nhẹ, bác đi, giao cho Các thần giữ mực công bằng nghị xử lại. Các thần phúc tâu, nói: “Xin chiểu điều luật “lầm lỡ việc quân” xử tội “trảm giam hậu””.

Vua lại nghĩ đến chú ruột y là Phạm Phú Thứ là cựu thần của tiên triều, vốn có trọng vọng, đáng nên ban ân cho con cháu; mới chuẩn cho cách chức, phát giao đi sai phái làm việc ở đạo Hữu trực kỳ”.

 

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,

1977, tr. 222).

                            

(*) Biện pháp tàn ác gần như tru di tam tộc, tam đại (giết cả người chết, bằng cách quật mồ, băm xương) này, thực ra khởi đầu là do bọn tay sai đắc lực của Pháp khởi xướng, theo lệnh của Pháp, để đàn áp, dập tắt phong trào khởi nghĩa Cần vương. Đó là bọn Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân. Bọn quan tỉnh, thực chất đã là tay sai của thực dân, cũng thực thi biện pháp ấy.

ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 197 ghi rõ: “Vua [bù nhìn Đồng Khánh – TXA. ct.] sai bọn khâm sai Phan Liêm tiến đi, (mang theo 300 lính tập và 100 binh giản). Phạm Phú Lâm vì mẹ ốm và tình trạng giặc [quân Cần vương – TXA. ct.] hoành hành, quấy nhiễu (quan viên hạt tỉnh ấy dự bàn đánh dẹp, đốt nhà, bắt thân nhân, và đào phá phần mộ của giặc), xin thôi chức phó khâm sai. Vua y cho”.

Chúng tôi phải chú thích thêm để thấy rằng, quân Cần vương cũng ở trong cái thế phải dùng “độc trị độc”. Trong trường hợp này, không thể trách quân Cần vương được!

Biện pháp dã man thời Trung cổ ấy, xin được hiểu với cái nhìn lịch sử – cụ thể và phải cần phê phán mạnh mẽ theo quan điểm luật pháp văn minh, công bằng, nhân đạo. Nói rõ hơn, hồi đó sự thể nó như thế; sự thể ấy do nhiều yếu tố của thời bấy giờ chi phối, trong đó có thói tục “một người làm quan cả họ được nhờ”, “một người làm giặc cả họ phải tội”. Và nói rõ hơn, sự thể ấy khác hẳn với quan niệm hiện đại của chúng ta: “ai làm ác nấy chịu, ai có công nấy hưởng”.

Ở đây, chúng tôi liên tưởng đến một trí thức tu sĩ Thiên Chúa giáo nào đó, hiện nay, trong mươi năm gần đây, vẫn còn khoái trá một cách bệnh hoạn, hả hê một cách man rợ khi xem phim Sám hối, ca ngợi một người đàn bà thuộc chủng da trắng châu Âu đã trả thù kẻ cầm quyền độc tài bằng cách ba lần quật mồ y! Vẫn là luật Trung cổ “mắt trả mắt, răng trả răng” ư? Thật rùng rợn và đáng phẫn nộ! TXA.

 

59. Là chánh khâm sai trong chiến dịch bôi nhọ, triệt hạ uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến, nhằm dập tắt phong trào Cần vương, cuối cùng Phan Liêm cũng như Phạm Phú Lâm, đều thú nhận: sĩ phu, nhân dân sáng suốt, giàu lòng yêu nước, không chịu khuất phục giặc Pháp và ngụy triều Đồng Khánh, tháng 8 Đinh hợi (tháng 9 – tháng  10. 1886):

 

“Giáng chức viên mới chuẩn cho lãnh tổng đốc Bình Thuận, Khánh Hòa là Phan Liêm … […].

[…] … Lúc đầu Liêm đã được mệnh mới, tức thời dâng sớ nói: “Hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa, dân sau khi bị loạn, vỗ yên răn dẹp thật khó; Liêm này mình ốm, tài xoàng, sợ không kham nổi chức ấy, xin chọn bậc danh khanh tài cán, lão luyện đến nhận chức; sẽ xin vào kinh chiêm bái, về quê quán chữa bệnh, để dưỡng tuổi trời”.

[…] … Sau khi đã về tới nơi, Liêm lại nói: “Dân hạt ấy, sau khi bị bọn giặc [quân Cần vương – TXA. ct.] mê hoặc [thức tỉnh, giác ngộ – TXA. ct.], chưa chắc mười phần hết ngờ … […]”.

Vua [bù nhìn Đồng Khánh – TXA. ct.] cho Liêm đã nhiều lần từ chối, không cần ủy gượng, đổi sai Văn Phong thay thế, rồi đem Liêm giải chức, giao cho đình thần trừng trị.

Đình thần xin xử tội đánh 100 trượng, cách chức không được trình bày.

Vua lại nghĩ, Liêm đã từng làm tổng đốc, lại là đời đời làm quan, chuẩn cho giáng làm biên tu, bắt về hưu”.

 

                                               (ĐNTL.CB., tập 38, Nxb. KHXH.,

                                               1978, tr. 12 – 13).

 

 

PHỤ LỤC:

 

CÁC TƯ LIỆU KHÁC

 

60. Về năm mất của Nguyễn Văn Tường:

 

“Nguyễn Văn Tường, người xã An Cư, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị […]; làm quan tới chức Cần Chánh điện đại học sĩ, phụ trách đại thần, tấn phong Kì Vĩ quận công. Sau sự biến năm Ất dậu (1885), chết ở bên Tây” [*].

 

(Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều hương khoa lục, bản dịch, Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 297).

                 

[*] Đảo TAHITI, thuộc địa của Pháp. Xem thêm: Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 478 – 485. Chúng tôi đã có ý kiến ở bài nghiên cứu “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885” về bài báo xuyên tạc và đầy thù hận này, đồng thời vẫn tiếp nhận để sử dụng các tư liệu gốc (ở đây là văn bản hành chính) của thực dân Pháp trong bài báo ấy. TXA.

 

61. Giấy khai tử, thủ tục hộ tịch về sự qua đời của Nguyễn Văn Tường:

 

“CÔNG SỞ PHÁP TẠI CHÂU ĐẠI DƯƠNG

Đảo Tahiti

Thị chính Papeete

Số 60

Cái chết của ngài Nguyễn Văn Tường

30.7.1886

 

Trích sao từ sổ hộ tịch của xã Papeete (Tahiti)

năm 1886

 

GIẤY KHAI TỬ

 

       Năm 1886, 30.7, 4 giờ chiều, trước mặt chúng tôi là Adolphe Marouo Poroi, là sĩ quan hộ tịch của xã Papeete, đảo Tahiti. Có đến: 1. Alphonse Bonnet, là quyền giám đốc Sở Nội vụ của các công sở Pháp tại châu lục, 57 tuổi; 2. Etienne Deheaulme, quyền chánh văn phòng của Sở Nội vụ, 26 tuổi; cả 2 người đều sống tại Papeete, đã khai với chúng tôi là sáng nay, lúc 4.h 30, ngài Nguyễn Văn Tường, cựu thủ tướng của Vương quốc An Nam, khoảng 65 tuổi, cư trú tại Papeete, không rõ tên cha mẹ, đã chết; chúng tôi lập giấy khai tử này, và đã ký tên với các nhân chứng; mọi người đều đã đọc.

 

Chứng nhận trích sao văn bản:                                     

 

Papeete, 08.12.1922

Ký tên:

A. BONNET,

Thị trưởng                               

E. DEHEAULME, AM. POROT.                         

                                        

(Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 482 – 483).

 

62. Trích tin tức về sự qua đời của Nguyễn Văn Tường trên Công báo Tahiti, 05.8.1886, trang 202:

 

“Nguyễn Văn Tường, cựu thủ tướng của Vương quốc An Nam, đến Tahiti tháng hai vừa qua trên tàu Scorff, chết tại Papeete, ngày thứ sáu, 30.7.1886, lúc 4.h 30 sáng.

Thân thể của ông được liệm trong một quan tài bốn lớp, hiện được giữ tạm trong hầm nhà xác để chở về Huế”.

 

(Aldophe Delveaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 481 – 482).

 

63. Quyết định di chuyển thi hài Nguyễn Văn Tường về Đại Nam:

 

“QUYẾT ĐỊNH CHO PHÉP

DI CHUYỂN THI HÀI CỦA NGÀI TƯỜNG

(Công báo của thuộc địa, 09.12.1886)

 

“Toàn quyền các công sở Pháp tại châu Đại Dương,

Chiếu theo văn thư của Bộ ngày 20.10.1886: chỉ định gửi về nước An Nam thi hài của ngài Tường, chết tại Papeete ngày 30.7 vừa qua,

Chiếu theo đề nghị của giám đốc Bộ Nội vụ,

Quyết định:

Cho phép di chuyển thi hài của ngài Tường, chết tại Papeete, ngày 30.7 vừa qua.

Việc di chuyển sẽ được thực hiện trong sự có mặt của ông chủ sự Y tế và ông trưởng ty Cảnh sát hành chánh có phận sự lập biên bản về việc này.

 

Do quyết định của toàn quyền:

Giám đốc Sở Nội vụ

A. MATHIVET.

 

Papeete, ngày 9.12.1886

                                                             Th. LACASCADE”.

 

(Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 482).

 

 

 

 

( xem tiếp : phần ngoài sách )

 

E-mail: tranxuanan_vn@yahoo.com

Cập nhật 07/01/09                                                                    Trở về trang chủ

                                                                 

_______________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01-5 HB7 (2007) = 15-3 Đinh hợi HB7