v. Tiểu mục 22-(thơ): Trần Xuân An - Chùm thơ sử về Quảng Trị
Đã đăng trọn 07 bài (30-10 HB10):
Tập thông tin điện tử Hội Nhà văn TP.HCM:
http://www.nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/tho/tran-xuan-an-tho-su-ve-quang-tri.html
PhongDiepNet:
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=11400
Cũng có thể xem tại:
http://txawriter.wordpress.com/2010/10/29/chum-tho-su-ve-quang-tri-7-bai/
Lời thưa trước: Thơ ca vốn rất phong phú về đề tài. Có thơ đời (xã hội), cũng có thơ nước (yêu nước), thơ nhà (kính thương cha mẹ, yêu vợ quý con), thơ tình (yêu đương thời trẻ tuổi). Lại có thơ triết (triết lí, triết học), thơ đạo (như thơ thiền chẳng hạn). Tất nhiên cũng lâu rồi, đã có thơ sử, rất đậm nét trong thơ thế giới và thơ Việt.
Tuy thơ yêu đương luôn luôn được người đọc mọi nơi, mọi lứa tuổi đón nhận, đồng cảm nhiều nhất, nhưng bó hẹp thơ trong lĩnh vực ấy là làm nghèo thơ đi, thậm chí là đẩy thơ vào lối nhỏ, so với con đường truyền thống thơ và ca dao Việt vốn rộng rãi, khiến thơ thua kém những thể loại khác, như truyện ngắn, kí tiểu thuyết, kịch...
Thơ sử, không phải diễn ca lịch sử, mà là thơ trữ tình về lịch sử, góp phần làm phong phú thơ và cũng rất cần thiết cho cuộc sống.
Cho dù viết về lĩnh vực nào, cái tôi của tác giả trong thơ trữ tình chỉ cần có một thái độ nhất định với ý thức về tính lịch sử – cụ thể, để khỏi đưa tâm hồn, tư tưởng mình và người đọc đi lạc. Thiết nghĩ như thế là đã đủ trách nhiệm cầm bút.
TXA.
02 – 26-11 HB10 (2010)
CHÙM THƠ SỬ VỀ QUẢNG TRỊ
(7 bài)
Bài 1
Trần Xuân An
SÔNG ÁI TỬ VÀ OA OA THẦN NHÂN
mở cõi, thuở đầu xa xăm
nhan sắc cũng đành ra trận
nước mắt đoá sen lấm bẩn
thành rừng ngọc sáng Nàng Lâm (1)
thần sông Ái Tử thương con
chẳng muốn phải nhiều máu đổ
nội chiến là điều đáng sợ
oa oa báo mộng chập chờn
Lập Bạo một mình trôi sông
quân Mạc vạn nghìn được sống
Cồn Tiên mấy làng trải rộng
rừng ngời thóc quả, mênh mông
chợt nhớ nơi nào Đào nương (2)
tiếng hát cũng đành vào trận
thành hoàng mừng và ân hận
Oa Oa chiến thắng và thương! (3)
sống giữa Quảng Trị bao năm
quê hương – ngoại xâm – cởi trói
rời xa, lắng từng đổi mới
yêu sao sử với hương trầm.
TXA.
21:20 – 22:05, 27-10 HB10
(1) Ngô Thị Ngọc Lâm (Ngô Thị Trà, làng Thế Lại, Thừa Thiên). Qua Qua, Trảo Trảo là các âm gọi khác của Oa Oa nữ thần, và có thể cũng biểu hiện hai ẩn dụ: tiếng khóc trẻ con; tiếng bới cát để mai phục. Xem sự tích này ở “Đại Nam thực lục”, tiền biên, kỉ Gia Dụ Nguyễn Hoàng, “Đại Nam nhất thống chí”, kinh sư (Thừa Thiên - Quảng Trị).
(2) Làng Đào Đặng (cũng gọi là làng Ả Đào), tỉnh Hưng Yên. Danh từ đào nương, từ đời Lý, vốn xuất phát từ làng này. Đào Nương dùng giọng hát của mình để quyến rũ giặc Minh (Trung Hoa) và tiêu diệt chúng. Xem: Ngô Đức Thọ, “Từ điển di tích văn hoá Việt Nam”, Nxb. TĐBK., 2007.
(3) Ngô Thị Ngọc Lâm và Đào Nương (và cả An Tư công chúa đời Trần), đều hi sinh trinh tiết vì nghĩa lớn, nên dân làng, dinh tổng trấn, triều đình có thể hiện niềm ân hận, tủi thương trong sự tôn vinh.
(câu đầu tiên bài thơ này, TXA. đã tự chỉnh lại như trên)
Bài 4
Trần Xuân An
LÂM HOÀNH (?-1883)
lòng muốn thét to, kìm khẽ giọng
– làm chi, cầm cự, hai mươi năm?
quân nhu luỹ chiến sơ sài quá! – ...
nhận lệnh, cúi đầu, Ông nghẹn thầm (*)
Ông cũng hiểu ra mưu giặc Pháp
luyện quân mua súng, chúng khuyên hoà
dàn tàu doạ dẫm, kích lương – giáo
cưỡng ước, vượt ngoài bao khoản xa
súng thép, Ông nhìn, đầy trái phá
lời chưa kịp nói, đạn vang rền
chia thuyền đánh úp, quân ta vỡ
gươm Pháp xô Ông xuống biển đen
phụ chính chỉnh triều, Ông đã mất
Lâm Hoành tử trận vội vàng sao!
hết lòng chiến đấu, quân thương khóc
bi tráng Thuận An, biển hận trào!
TXA.
17:30 – 18:15 & 21:37, 28-10 HB10
(*) Lâm Hoành, còn có âm đọc khác là Lâm Hoằng, người xã Gio Bình, huyện Gio (Do) Linh, Quảng Trị. Cuối đời, khi Pháp ngày càng bộc lộ dã tâm, vua Tự Đức có sai ông đi tu bổ hệ thống đồn luỹ ở cửa biển Thuận An (Huế). Xem “Đại Nam thực lục”, kỉ Tự Đức và phần phụ chép vua bị truất bỏ (Dục Đức, Hiệp Hoà), “Đại Nam liệt truyện”, nhị tập (bản dịch: tập 4), “Quốc triều hương khoa lục”, “Quốc triều đăng khoa lục” (phó bảng, tuẫn tiết).
Cửa biển Thuận An 1883 & Lâm Hoằng
Bài 5
Trần Xuân An
TÂN SỞ VÀ DỤ CẦN VƯƠNG
Dụ Cần vương dậy Trường Sơn
Giải Triều, trung nghĩa, tờ son gửi về (1)
bình Tây, sát tả-tà-mê
cho Tân Sở – Huế tư bề hoa giăng
lễ tần viết sắc “hòa” ban (2)
Tôn Thuyết chiến để Nguyễn Văn Tường đàm
Pháp tung cáo trạng Bắc – Nam
lưu đày Kì Vĩ, chết thầm đảo xa (3)
súng rền, khâm sứ bôi nhòa
hòm tù đỏ, Hạnh Thục ca hoen vàng
Vè Thất thủ giữa dân gian
giọng run lệch bởi chuông vang giáo đường
thơ Nguyễn Thượng Hiền buốt sương
thương thái phó, ngó sen vương, dặm về (4).
TXA.
1985 – 1999
(1) “Giải triều...”, tên một bài thơ của Nguyễn Văn Tường (1824-1886), được viết sau cuộc Kinh đô quật khởi và bị thất thủ. Tờ son: “Dụ Nguyễn Văn Tường”, do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết bí mật gửi về cho Nguyễn Văn Tường, cùng một ngày ban “Dụ Cần vương”, tại Tân Sở (02-6 Ất Dậu: 13-7-1885), theo sách lược “kẻ ở, người đi”.
(2) Lễ tần Nguyễn Nhược Thị Bích, tác giả “Hạnh Thục ca”. Theo “Đại Nam liệt truyện”, bà là người viết tất cả các bản dụ của Thái thái hậu Từ Dũ, sau ngày Kinh đô quật khởi, bị thất thủ, từ Quảng Trị quay về Huế.
(3) Nguyễn Văn Tường còn có mĩ hiệu vua Tự Đức ban: Kì Vĩ. Ông bị giặc Pháp lưu đày ra Côn Đảo, rồi tiếp tục bị lưu đày sang quần đảo thuộc địa Tahiti (Thái Bình Dương, gần Trung – Nam châu Mỹ), và qua đời ở đó (30-7-1886).
(4) Thơ Nguyễn Thượng Hiền: “Không quá Tây môn, bi thái phó” (Cái hư không đến cửa Tây, thương xót thái phó = Trời vượt cửa Tây, thương thái phó). Nguyễn Văn Tường có cung hàm là thái phó.
Kinh đô chúa Nguyễn đầu tiên ở Quảng Trị
Bài 2
Trần Xuân An
TƯỞNG NIỆM NGƯỜI ANH HÙNG
TRẦN XUÂN HOÀ (?-1861)
đã đành hoa trắng Thâm Khê
thơm vào Mỹ Quý tư bề phương Nam
bao năm ở, mấy lần thăm
tìm đâu, Quảng Trị, đền trầm hương xưa? (1)
người anh hùng sáng lòng vua
đỏ lòng dân thuở bốn mùa nến chong
những gì tàn phá, trống không
chỉ còn trang sử rêu phong, quê mình!
phố phường quốc tế, rộng rinh
tên anh hùng sáng lặng thinh tên đường
tên Người – ngọn lửa cố hương
nung gươm Phủ Cậu Định Tường diệt Tây (2)
sáu lần toả đánh, giải vây
chí bền bĩ luỹ tre dày, hào sâu
rơi vào tay Pháp, lòng đau
giữ thơm danh tiết nghìn sau đất này
vẫn nghe Thành Cổ xót cay
đền thờ thuở ấy, lâu nay đâu rồi?
biển quê sóng nhắc khôn nguôi
Trần Xuân Hoà, xương rồng ngời sáng quê.
TXA.
15: – 17:45, 27-10 HB10
(1) Quê gốc: làng Thâm Khê, xã Hải Khê, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị; từ đời thân sinh, đã vào Nam bộ. Mỹ Quý (Quí), tỉnh Định Tường (Tiền Giang) là nơi ông lập căn cứ, liên kết với Trương Định, Võ Duy Dương, Thủ khoa Huân và các lực lượng nghĩa binh Nam Kỳ khác để chống Pháp. Xem “Quốc triều hương khoa lục”, “Đại Nam thực lục”, kỉ Tự Đức, “Đại Nam liệt truyện”, nhị tập (bản dịch: tập 4).
(2) Người dân địa phương thường gọi quan tri phủ Trần Xuân Hoà của mình một cách vừa kính trọng, vừa thân mật là Phủ Cậu (ông cũng là con trai của bố chính sứ Trần Tuyên).
Bia tiểu sử Nguyễn Văn Tường (1824-1886),
dựng trong Lễ minh oan do Hội KHLS.Việt Nam,
Hội KHLS. Thừa Thiên - Huế tổ chức.
Bài 6
Trần Xuân An
TÌM NGUYỄN TỰ NHƯ,
HỘI NGUYÊN NĂM MẬU TUẤT (1898)
Pháp chém anh, và cha Pháp trói
tim Ông nung núi rựa rừng liềm
cờ Cần vương gió xoay nghiêng ngả
đành nộp mình, nhờ bại tướng Viêm (1)
nộp thân mình, xóm làng thôi cháy
cam rụng đầu thay tuổi hạc già
bia tiến sĩ, mộc che ẩn nhẫn (2)
nước suy trầm, chí có phôi pha?
quãng cuối đời rơi vào khuyết sử
sách đèn vui? áo mũ buồn rầu?
thương hùng tâm gác câu chờ nước
Nguyễn Tự Như! Tìm Ông ở đâu?
TXA.
8:30 – 10:43, 28-10 HB10
(1) Nguyễn Tự Như, người xã Hà Thượng, tổng An Xá, huyện Gio (Do) Linh, tỉnh Quảng Trị, cùng Trương Đình Hội và nhiều thủ lĩnh khác khởi nghĩa Cần vương ở tỉnh nhà. Thân sinh ông là Nguyễn Tự Cường, anh ruột ông là Nguyễn Tự Khiểm. Bại tướng Viêm: Hoàng Tá Viêm. Xem “Đại Nam thực lục”, kỉ Đồng Khánh.
(2) Xem “Quốc triều hương khoa lục” (cử nhân), “Quốc triều đăng khoa lục” (tiến sĩ) và bia tiến sĩ ở Huế.
Bài 7
Trần Xuân An
HOÀNG HỮU XỨNG (1831-1905)
Ông mắng giặc Tây và tuyệt thực
về kinh lầm lũi trước ngai rồng (1)
vận suy thế nước nhoà mê tỉnh
(giặc đánh, thép trui lẫn mật hồng!)
nước mất, Ông lặng thầm chép sử (2)
quản chi xuôi ngược, cứ gom đầy
muôn đời mặt nước là công lí
phun ngược đổ xuôi vẫn thẳng ngay
chống Pháp, Pháp đày, sử gọi giặc
nghìn sau hậu thế sẽ tôn vinh
(dăm đời nhân vật đành lem nhọ
sử thắt tâm Ông như cực hình!)
yêu sử, Ông đau thời khuyết sử
cam làm nghịch sử, khỏi hư không
nhưng ai đảo được cân công lí
Sử quán giữ tâm – tâm ẩn trong.
TXA.
14: – 15:45, 28-10 HB10
(1) Thất thủ thành Hà Nội lần 2 (1882). Xem “Đại Nam thực lục”, kỉ Tự Đức. Bài thơ này chủ yếu viết về giai đoạn làm sử của Hoàng Hữu Xứng.
(2) Hoàng Hữu Xứng, người làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, là phó tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn, khi làm “Đại Nam thực lục”, kỉ Kiến Phúc. Đây là kỉ vẫn còn đậm tinh thần dân tộc, yêu nước, chống Pháp, mặc dù ít nhiều còn bị hạn chế. Kỉ này vượt trội và hơn hẳn so với kỉ Đồng Khánh thân Pháp.
Căn cứ Mỹ Quý & Trần Xuân Hòa (?-1861)
Bài 3
Trần Xuân An
MỘ ÔNG CHƯỞNG (?-1869),
MỘT ĐỊA DANH QUÊ HƯƠNG
(đã chỉnh sửa nhỏ, 11-11 HB10)
tự bao giờ dân khắc sâu
thành tên trảng cát nghìn sau vẫn còn (1)
phỉ Tàu thuở quấy nước non
nghe Phan Bân đã lạnh hồn trốn xa (2)
máu tử tiết mãi chói loà
người Hải Lăng, phút trót sa bẫy thù
đọc ngàn vạn sách vẫn mù
một hôm sáng mắt tuổi ngu ngơ nào
phải đâu huyền thoại trời cao
đất quê là sử, trót xao lãng lòng!
bỗng thèm học tại nguồn sông
mạch khe chóp núi cánh đồng quê xa.
TXA.
19: – 21:07, 27-10 HB10
(1) Mộ Ông Chưởng ở vị trí rất gần với thị trấn mới của huyện Hải Lăng, Quảng Trị hiện nay.
(2) Người huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị (Có thể xác định xã nguyên quán là Hải Lâm, Hải Thọ hay Hải Thượng? Vui lòng xem bài vị ở Trung Nghĩa từ, Huế). Ông vốn là chưởng vệ (chỉ huy một vệ quân), sung đề đốc hải phận Hải Dương - Quảng Yên, nên gọi là Ông Chưởng. Xem “Đại Nam thực lục”, kỉ Tự Đức, “Đại Nam liệt truyện”, nhị tập (bản dịch: tập 4).
Tham khảo về các địa điểm, địa danh:
Đồng hương với anh hùng Trần Xuân Hòa (?-1861)
_______________________________________________ __
Xem tiếp:
Trần Xuân An -- VIẾT TIẾP THƠ SỬ VỀ QUẢNG TRỊ, 03 bài
(07-11 HB10)
Trần Xuân An -- Những tồn nghi trong loạt thơ sử mới viết
(11-11 HB10)
Trần Xuân An -- Thơ sử về Quảng Trị, chùm 3 (2 bài)
(17-11 HB10)
........ >>>>> .......
Bổ sung vào chùm thơ sử về Quảng Trị:
Trần Xuân An -- "Nghi thức nhặt cơm rơi của bà mẹ quê" (29-12 HB10)
Google Sites / host
WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ... / HOST, SEARCH & CACHE