b. Trần Xuân An - Kẻ bị ném vào bão - Tệp 2

author's copyright

TRẦN XUÂN AN

       18 tháng 3 HB6 ( 2006 )

06/30/09

           

 

 

      Phần 1

 

      Phần 2

 

 

 

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

 

KẺ BỊ NÉM

VÀO BÃO

 

tập thơ

 

 

 ( phần 2 )

 

 

NHÀ XUẤT BẢN trẻ TP. HCM.

 

1995

 

Xem:

http://tranxuananthitap5.blogspot.com

 

thức giấc, mảnh đất da vàng và 1973

 

một thời máu chảy ruột mềm

đau nhìn vượt cắp gọng kềm nghiến tim

sân trường, thét nỗi nín im

bừng tia chớp những quờ tìm mù đen.

 

biển đời

 

một thời dầm mình lãng quên

biển mơ, quặn sóng gió rền rĩ xanh

“cắp” xoài cúng Phật vàng hanh

ném bóng mình – kiếp “trời” hành với thơ.

 

giằng xé

 

một thời lãng đãng bâng quơ

tóc trùm tai, mướt xanh thờ thẫn xanh

vỡ niềm gạch vỡ góc thành

khoác rêu óng ả tan đành đoạn sương.

               

mũi tên, sống của chết

 

một thời rách rưới xanh xương

mét xanh tàu lá bên đường tả tơi

bàng hoàng, ơi kiếp cũ ơi

bứt mình ngọn cỏ mặt trời vút bay.

 

trấu và men rượu

 

một thời ngây ngất cơn say

đỏ niềm mộng tưởng rót đầy chiêm bao

nuốt mặn đắng rất ngọt ngào

cam ngàn cái thực lận vào cái điên!?

 

giữa tấn tuồng sấm sét

 

một thời cay cực buồn phiền

hoảng hồn, em, chính là triền đất hoang?

cỏ dâng dâng cỏ ngút ngàn

vùi lên tôi

nấm mộ

bàng hoàng

đêm.

 

kính tặng quê nhà

 

bao năm về chết đất này

cỏ leo giường mục phủ dày tập thơ

lẽ ra râu tóc trắng phơ

nhờ ơn bút mực nên giờ còn xanh.

 

chất độc

 

bao năm phố quẩn phường quanh

lạc xiêu trầm lụy tròng trành u mê

lặng nhìn con trốt vỉa hè

cuốn bao “hàng mã” trút về kênh đen.

 

“Nhật kí người điên”

 

bao năm kinh sách chong đèn

từng con chữ cũ nấm lên phiến rầu

một nguồn Biển Chết (*) đỏ màu?

gào đau – Lỗ Tấn, thét sầu – Đinh Linh (**)!

 

Cước chú của bài “Nhật kí người điên”:

(*) Biển Chết (Tử Hải), ở Isặl (Do Thái), nơi phát hiện Kinh Thánh của người Do Thái… Phải chăng chủ nghĩa Mác là một sự phủ định Kinh Thánh và Giáo hội chuyên chế để khẳng định một hệ tư tưởng mới với sự kế thừa những yếu tố của Kinh Thánh và Giáo hội chuyên chế… Đó cũng là tiến trình biện chứng của sự phát triển bất kì hệ tư tưởng nào. Mặc dù có thể cùng chung một nguồn, nhưng chủ nghĩa Mác (vô thần) với Thiên Chúa giáo (hữu thần) vốn chống đối, triệt tiêu nhau.

(**) Lỗ Tấn (1881 – 1936), nhà văn cánh tả Trung Quốc; ông bắt đầu hoạt động sáng tác văn chương trong phong trào Ngũ tứ vận động (1918…), trở thành một trong những vị thầy của nền văn học vô sản. Đinh Linh (1904 – 1986) cũng là nhà văn cộng sản Trung Quốc; nhưng bà bị quy là cánh hữu, bị đấu tố, nhục hình từ 1957 và cả trong thời “Cách mạng văn hoá” (1966…); được phục hồi từ 1979.

     (Xem: Từ điển văn học (bộ mới), NXB. Thế Giới, 2004, ở các trang thuộc hai mục từ này).

     Nếu Lỗ Tấn lên án bản chất “người ăn thịt người” của các hình thái nhà nước trước khi hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành (1917), thì chính Đinh Linh lại bị “đại cách mạng văn hoá vô sản” tại Trung Quốc “ăn thịt”! Nói theo cách của một sử gia, đó là cái oái oăm lịch sử hay là chân lí lịch sử? Phải chăng sứ mệnh của bộ phận tiên tiến trong nhân loại nói chung và nhà văn nói riêng là phải luôn luôn đấu tranh (dưới bất kì hình thái nhà nước nào) cho đến một thời viễn tưởng (hay hoang tưởng?) – thời không còn giai cấp, nhà nước, chính đảng, tôn giáo… như chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã khẳng định.

      Vấn đề đáng ưu tư về quá khứ và về hiện thực trước mắt là mức độ cũng như tính chất của sự thể “người ăn thịt người”, “người bức hiếp người”, và thái độ của con người chân chính trước sự thể ấy!

      Xin xem thêm tập thơ Tôi vẫn ở trên đường (đặc biệt là các trang phụ lục mới được bổ sung, 2005) và tiểu thuyết Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến) của Trần Xuân An. 

                             (Chú thích ngày 20. 03. 2005).

 

đêm tối

 

đột biến nắng ngời chất lửa hạ

hạt bão vùi trổ nghẹn vườn cằn

rễ chạm mạch nghìn xưa tươi máu

nền khuya sáng ngần sao ngọc lan.

 

trái đỏ

 

rưng rưng sương rơi theo ngàn úa vàng

đứng sững, trong nấm mồ xác lá

quả tim hồng nẩy cây xanh trĩu quả

tàn rụng võ vàng, úa để xuân sang!

 

1991

 

phương nam vàng tươi, bấc phùn xứ bắc

miệt vườn hồng lũ, mỏ than óng mùa

bay bay trong veo lâng lâng toả mật

xẻ dọc con đường bên nắng bên mưa.

 

kĩ nghệ

 

kẻ sĩ buồn ở ẩn góc lao xao

sạch Tây Tàu bút lách luồn chớn chở

thời rền máu sao đến thời rặt chợ

khát công trường phòng nghiệm, nến tàn hao.

 

tâm hồn Trăm Việt

 

bỏ lại Lưỡng Quảng mênh mông

                   nỗi giận hoá núi rừng

rồng giương móng – chĩa sắt –

                   chặn bàn chân giặc

cánh cò lửa trên cán thép Trường Sơn

                        xoè bóng mát

sóng gió lấp láy cần đàn,

                    dạt dào xao xuyến luyến rung.

 

ca dao Nam Ai Nam Bình

 

viên gạch Hồi In-đô

          còn ướt đất Phù Nam Shi-va tây bắc

                                                       xa xăm?

vượt biển xanh? hay bươn rừng?

             đỏ nung trên bãi bờ thưa vắng

trống đồng Chim Lạc Việt Thường

                 đành vùi bùn tro thầm lặng!

và sáu-tám-Kinh-Mường

                       mãi thắm hồng

                                  hồn lục-bát-Thái-Chăm.

 

gốc giọng Thạch Sanh

 

gà rừng gáy Óc Eo – trên vùi lấp cảng chợ

                                                    xanh tràm

cây đước choãi rễ

                lấy mình giữ phù sa Hi Ma xứ lạ

máu Kinh Tày pha Chăm

                  chất tiếng giờ đây ngọt quá

giữa bát ngát bùn hoang

                   bác Ba Phi Khơ-me ha hả

                                 tẩm giọng tình

                                 hương đường thốt nốt

                                             phương nam!

 

trong vòng tay biên giới

 

vầng trán da chàm Việt Kinh

                  ấm nụ hôn Việt Chăm nâu hồng

(chợt ngán ngẩm những tranh đoạt

          những hàng rào vàng, đen, trắng, “đỏ”!)

tiếng lục lạc reo trên tay

                     lung liêng

                         nắng thơm tháp cổ

mỉm cười nhìn uyên ương tung vó ngựa

                            xoải dài suốt dải non sông.

 

“nhược tiểu”…

 

tha thiết tiếng ca thao thức với đất lành

bỗng èo uột mát tươi niềm khờ khạo

chất độc chích vào, viễn mơ, mộng hão

con tò vò nuôi con sâu xanh!

 

bão khơi

 

gân guốc một đảo đá

dập vùi nghìn sóng thần

nước tung tràn động biếc

đọng ngời tiếng chim ngân.

 

từ 1982

 

buốt cơn hoang tưởng niềm đau mắt

bão xoáy bỏng tim hội chứng đời

trào nỗi bệnh mây nhàu nếp trán

biển mặn dâng sóng vỗ con ngươi

 

đôi mắt bốn nghìn năm

 

cái nhìn mềm mại như sông

khuấy bùn dao chém vẫn trong không rời

nhìn từ nguồn cội xa xôi

cong queo rất thẳng phía trời rạng đông.

 

nhịp điệu vỉa hè, kinh điển

 

dệt hoa lên vải, xuân ra ruộng vườn

ủ nhụy ngoài đồng, tết vào phường phố

ơn đời mồ hôi, và đời mắc nợ

đoá “cẩm tú cầu” chất xám ngát hương.

 

ở ngã ba, biển tên đường

 

mũi giáo xoáy đùi người ngồi đan sọt

chín chín đỉnh Hồng, kìa ai ngóng vua!

kẻ sĩ nào đây nghiến sầu kiếp mọt

đục sách hốc tối chữ rêu thắp mùa?!

 

Hàn nho và Tài tử đa cùng (*)

 

áo xanh, nhà trắng – gấm vóc, lầu đài!?

trên cát hát tràn, giữa đồng ứ hự

tâm đỏ muội đèn, chí vàng lính thú

thông vút – mo cau, đầu cúi – cành mai!

 

Cước chú của bài Hàn nho và Tài tử đa cùng:

(*) Hai bài phú của Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát.

                          (Chú thích ngày 20. 03. 2005).

 

với Tùng (*)

 

ngâm thấm tanh bùn, đục bào dác vỏ

rất đỗi con người, tre gỗ dựng nhà

cỏ khô che nắng, đất nung che gió

đạp trên cỏ đất?! rường cột đơm hoa!

 

Cước chú của bài Với Tùng…:

(*) Một bài thơ của Nguyễn Trãi.

                        (Chú thích ngày 20. 03. 2005).

 

Gióng, người con của trời

 

nỗi uất nghẹn đứa trẻ câm

bỗng vang hồn nước, đỏ tầm tre vung

sạch thù, xoải vào vô cùng

lòng dân – xanh rộng,  anh hùng – cánh chim.

 

Thạch Sanh, khát vọng từ đất

 

hoà bình, vang ngát lắng im

tiếng đàn cho giặc trái tim con người

nồi cơm độ lượng không vơi

nàng tiên, câm, cũng hát lời dân gian!

 

dọc đường

 

mới trước

đã sau

xanh mượt

trắng đầu!

 

mỗi người

 

ngọn cỏ

treo sương

chuốc gió

xoáy cuồng!

 

lúc nhìn

 

sáng nắng?

trăng mơ?

hồ lặng

nét thơ.

 

nhà thơ

 

lầm lội

khơi vơi

tám cõi

nghìn đời.

 

trà thơ

 

đây em, sương muối nắng hanh…

nỗi đời – vò nát chồi xanh hồn này

toan trơ trụi lá khô cây

thôi thì chát chén trà say với người.

 

bút thơ

 

đây em, vắt sắc tóc ngời

nỗi đời – bóp – thả, đầy – vơi, ứa – ròng

sá gì giọt mực trên sông

cũng xin cấy chữ xuống đồng đón xuân.

 

sống thơ

 

đây em, lóng bút – đòn cân –

tao nôi hẫng, quả tim ngân mảnh gầy

anh cân hồn chữ anh đây

đặt lên trang giấy, gió bay, không đành!

 

nghiệp thơ

 

đây em, cơn khát trời xanh

sao bao đồng, sao loanh quanh quẫn mình

trái tim ơi lũ lụt tình

chuốc ma mị nỗi tà tinh, bọt bèo!

 

trắng giấy

 

giấy trắng, chồi xuân chưa xanh

cánh hoa rời, đỗ long lanh ánh đào

kết cùng bè chữ chiêm bao:

lục bình trôi cõi xưa nào đây em?

 

trắng khăn

 

hoa và chữ ấm khăn tay lụa mềm

vân chìm mây, tre trúc, nắng, trắng thềm

thời mộng tưởng em thêu bài thơ biếc

trong đĩa hồng, thắp bấc sáng ngày đêm.

 

trắng tay

 

cánh hoa rơi mực đỏ nhem

bàn tay trắng phấn dạy kèm trắng khô

chân chim – đường phận, mơ hồ!

thơ bốn nhánh, đau nhánh thơ cuối cùng?

 

trắng tranh

 

thơ và hoa trên góc lụa lên khung

tơ – tóc xanh – bỗng bạc trắng nghẹn ngùng

vầng trán gấp tư ngắm tranh song hỉ:

bốn bánh rẽ bùn – tứ tuyệt rưng rưng.

 

im lìm

 

ơi em, đời chả ra sao!

điên và dại ở trong “bao” (*) chết chìm

ngỡ đành ngủ giấc im lìm

may thay dây bục trái tim bồng bềnh.

 

Cước chú của bài Im lìm:

(*) Thơ Tố Hữu: “Gỡ lối “bao” xưa, người mọc cánh; được mùa “khoán” mới, đất lên men” (bài Đêm cuối năm), phê phán cơ chế cũ nặng tính chất quan liêu, bao cấp (bao cấp gắn liền với thói tệ quan liêu làm một).

                           (Chú thích ngày 20. 03. 2005).

 

rong chơi

 

ơi em, tim mẻ đá ghềnh

nở hoa bèo tím lênh đênh cõi người

giạt trôi theo gió rong chơi

nhìn mây trắng ngẫm chuyện đời đất đen!

 

thung thăng

 

ơi em, triều mặn gió rền

bèo ra cửa chết, ngợp đèn giăng giăng

lại dung dăng sống thung thăng

thành sao biển rủ sao băng xuống đời.

 

tầm phơ

 

ơi em, mấy kiếp luân hồi

vẫn một tôi thuở nằm nôi đến giờ

nghêu ngao cười khóc tầm phơ

và rêu rong rất người-thơ-mây-trời.

 

xem tranh tuổi thơ

 

vỏ cây nứt xếp thành gương mặt

gió rơi vèo điểm đôi mắt xanh

tìm đâu ra đoá hoa mùa bão

vẫn lá thôi, nụ cười long lanh

 

nhìn đốm lửa thuốc lá

 

một mai vẫn làn khói lạ

tan cùng thoáng gió tinh sương?

nắng có bâng khuâng đọng hạt

xin ơn vệ cỏ ven đường.

 

 

 

Trần Xuân An

 

TIẾNG CHUÔNG XƯA

 

sáng nay em đi chùa

lòng tôi buồn hơn xưa

một thời con dế nhỏ

ngậm sương mùa tương tư

một thời con kiến nhỏ

khóc vùi trên đường mưa

 

sáng nay em đi chùa

tóc em cài hoa xưa

thắp lên mùi hương khói

trên bình nhang linh hư

 

môi em thuyền bát nhã

xa tôi bờ đời mưa

ngắn dài câu gian dối

ướt sũng lời lọc lừa

 

sáng nay em đi chùa

em mặc áo người xưa

dìm tôi dòng mộng cũ

ngậm nhánh rong mơ hồ

 

sáng nay em đi chùa

lá ngủ còn hương xưa

tôi làm con chim nhớ

hót mừng ai giao mùa?

 

tôi là chim đổi xứ

tìm hoài mùa ngây thơ

tôi mang thân cổ thụ

níu mãi mây ngu ngơ

một đời còn thương nhớ

khi nghe tiếng chuông xưa.

 

1973

 

 

 

ĐỌC MỘT TRẦN XUÂN AN LẠ LẪM…

 

bạt của HOÀNG DŨNG (*)

 

       “Giọng thơ Trần Xuân An tuồng như chính là mêlôđi (**) của đồng quê trong Nắng và trong Mưa, là âm thanh của giọt nước tàu cau trước sân nhà, và là tiếng hát của chim sơn ca giữa trời xanh mây trắng”; quả là sắc sảo nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường về tập thơ đầu tay Nắng và mưa. Nhưng đến tập thứ năm này, bản hoà âm điền dã đã mờ nhạt đi rất nhiều. 

Nhạt đi, chứ không mất hẳn. Vẫn là một Trần Xuân An trước đây, trong trẻo và dịu dàng như hồn Đất. Trong thơ anh, cũng như trước, thiên nhiên không có cái cuốn hút của sự kì vĩ. Sắc màu bình dị của hoa đồng cỏ nội đủ lay động hồn anh. Và ở những câu thơ thành công nhất của anh, người ta phải bàng hoàng trước cái đẹp thanh khiết của thi ca. Đây, câu thơ lộng lẫy, nhạc điệu ngây ngất, lảo đảo như chuếnh choáng hơi men, không, phải nói là như trạng thái nhập đồng:

tím ngan ngát hoa và phơn phớt nắng

sim sim mua mua vàng hồ phấn thông

Đây, tài tình không, những liên tưởng bất ngờ, những chuyển đổi cảm giác tinh tế mà một bông hoa súng đơn sơ giữa đồng không gợi lên trong anh:

lung lay chim nhỏ

hé giọng đỏ hồ

búp bấc đèn nở

đêm loang bao giờ.

Nhưng đậm lên rất nhiều là một Trần Xuân An thích triết lí; vì vậy, có khi không ngại rối rắm để biểu đạt. Tôn giáo, vũ trụ, máy cày, tem thư, toà án, sống chết… và nhất là lịch sử đều có thể khơi gợi ở anh cảm hứng triết lí. Và nhìn một hướng khác, cũng đậm hơn rất nhiều là một Trần Xuân An chói gắt, bề bộn, đa dạng, thành thị. Chỉ cần đọc tiêu đề một số bài thơ cũng đủ cho ta cái ấn tượng ấy: Từ vệ tinh, ảnh không lời về những quảng trường lăng tẩm trên trái đất, Khoả thân sống, Đồ chơi điện tử, Địa cầu bùng nổ thông tin, Hiệu ứng nhà kính, Vi tính cho trái tim… Điều ấy thể hiện ngay ở tên các tập thơ; này xem, bốn tập trước còn nhẹ nhàng: Nắng và mưa, Hát chiêu hồn mình, Tôi vẫn ở trên đường, Lặng lẽ ở phố, thì nay: Kẻ bị ném vào bão! Những câu thơ day dứt thế này thật hiếm hoi ở các tập trước: “thời rền máu sao đến thời rặt chợ”, “bao năm phố quẩn phường quanh, lạc xiêu trầm lụy tròng trành u mê”, “cơ hồ giáp mặt cuộc đời…, tôi ngồi bệt xuống ngó tôi trên nền”…

Ngay cả về kĩ thuật, cũng có nhiều nét không giống trước. Dường như Trần Xuân An muốn thí nghiệm. Hầu hết các bài thơ trong tập thơ này đều chỉ bốn dòng, nhưng tất cả, theo cách nói của anh, là loại “thơ bốn nhánh”, “thơ bốn chuỗi chữ”. Tuy nhiên, trong hạn định ngặt nghèo ấy, anh vẫn tự do: một bài chưa đủ, thì bốn bài liền mạch như một bộ tứ bình; câu thơ đa dạng, cả một phổ từ hai chữ đến vài chục chữ; thể thơ khi tự do, khi tứ tuyệt cổ điển, khi lục bát…; vần gieo đủ loại: vần liền, vần cách, vần lưng, vần chân…, cho đến cả vần ngỡ không vần, và cũng không ngần ngại dùng đến loại vần dân dã chữ cuối câu lục ăn với chữ tư câu bát; ở một số bài, các hình ảnh đột ngột, bề ngoài như rời rạc, mà sâu xa được nối kết bằng những liên tưởng…

Một Trần Xuân An lạ lẫm như vậy đã thấp thoáng trong Lặng lẽ ở phố, nhưng phải đến Kẻ bị ném vào bão mới rõ nét.

Gấp tập thơ lại, người đọc có cái bâng khuâng khi thấy tỉ lệ các bài thơ ta thích không nhiều bằng các tập trước. Nhưng rồi giật mình: Không khéo lại lẩn thẩn, đòi phải trở lại một Trần Xuân An hệt như xưa! Không, “thơ anh tránh được những lối mòn quen thuộc, có nét độc đáo trong ngôn từ và một cái ‘souffle’ riêng” (Trần Phong Giao) (***), thì chính anh cũng phải tránh lối mòn của chính mình, tự vượt lên với một giọng điệu mới. Cái mới nào cũng làm ta bỡ ngỡ! Thử nghiệm cái mới thành công sẽ khiến ta thay đổi cả nền tảng thẩm thức! Trên con đường thăm thẳm của thi ca, phải dám chấp nhận khả năng lạc bước, và điểm đến của sáng tạo không phải bao giờ cũng là ảo ảnh.

Khẳng định hay phủ định, điều đó thuộc về thời gian.

 

                             Tp. HCM., cuối năm 1994

HOÀNG DŨNG

 

 

Cước chú của bài Bạt của Hoàng Dũng:

(*) Bởi có nhiều Hoàng Dũng thành danh trong thời đoạn này, do đó, xin xác định đây là giảng viên Đại học Sư phạm Huế (PTS.) & Đại học Sư phạm TP. HCM. (PGS. TS).

(**) Melody: âm điệu du dương; giai điệu.

                            (Chú thích ngày 20. 03. 2005).

(***) Souffle: hơi thơ (khí thơ).

 

 

 

KẺ BỊ NÉM VÀO BÃO

tập thơ

TRẦN XUÂN AN

 

 ◘ Tựa: Cao Quảng Văn

1.           Thay lời ngỏ: Chén rượu tràn bông khế tím

2.           đồng không, bông súng

3.           đất và cát

4.           quê cha

5.           mặc niệm mới: Người Mẹ Việt Nam

6.           tình yêu

7.           đùa chút đỉnh với “tôn nữ” và mưa…

8.           một-đi-không-trở-lại và ảnh ảo

9.           sức hút của đất

10.       thắp nhang

11.       cuồng tín

12.       thơ ở Nhà Cười với những khung kính

13.       tượng trắng và hoa sân nhà

14.       còn trong gió rét

15.       khi không và về đâu

16.       ảo giác Đầm Sen

17.       sớm của muộn

18.       vườn trẻ cho tuổi xế tàn

19.       tuổi bỗng triệu năm và tươi trẻ

20.       bên những nấm mộ

21.       ở đan viện đồi thông

22.       khất thực và thiền

23.       tượng Phật Tánh trong chùa nguyên thuỷ

24.       chút lòng về trước

25.       phân thân

26.       ca dao khóc

27.       xứ cát  

28.       tranh tố nữ (I)

29.       tranh giọt lệ (II)

30.       tranh Người Mẹ (III)

31.       tranh Tây Nguyên (IV)

32.       dáng đàn chòm sao (I)

33.       chất sáo (II)

 ◘  phụ bản 1: trăng, bùn và ánh sáng…

34.       kèn hồng hoang (III)

35.       đàn bầu (IV)

36.       từ vệ tinh, ảnh không lời về

        những quảng trường lăng tẩm trên trái đất

37.       thấy ở hiệu may

38.       khoả thân sống

39.       đen đúa (I)

40.       xanh bầm (II)

41.       bạc trắng (III)

42.       biếc trong (IV)

43.       mùa xuân (I)

44.       mùa hạ (II)

45.       mùa thu (III)

46.       mùa đông (IV)

47.       tàu đi (I)

48.       Trường Sa (II)

49.       về bờ (III)

50.       những không ảnh từng cù lao (IV)

51.       tinh mơ (I)

52.       bìa vở (II)

53.       trà khuya (III)

54.       tuổi chiều (IV)

55.       mưa đông trắng xoá

56.       sông Hương buông rủ

57.       cảm thông Hồ Dzếnh

58.       nắng dưới vòm me

59.       con gái biển (I)

60.       làng chài (II)

61.       nhìn qua mắt lưới (III)

62.       đảo lạnh (IV)

63.       mùa lụt (I)

64.       mùa bưởi (II)

65.       mùa hạn (III)

66.       mùa mía (IV)

67.       dân dã (I)

68.       thiên đường trăng mật (II)

69.       thuỷ cung vàng đá (III)

70.       thơ tặng những thiên nhiên hồng… (IV)

71.       máy cày Giao Chỉ đêm, những vầng trăng đất

72.       từ hình tượng cổ

73.       ca dao cánh trắng

74.       đồng dao cò trắng

 ◘  phụ bản 2: Dáng cò

75.       khe nước biến màu (I)

76.       lưỡi đao hai khối (III)

77.       thời trang

78.       nghệ sĩ

79.       trạng nguyên

80.       hoa khôi và dân khúc

81.       ngủ dưới túp lều tranh phên trát

82.       trời và đất

83.       đồ chơi điện tử

84.       đáy mắt bão (I)

85.       lực mắt bão (II)

86.       trường mắt bão (III)

87.       áp mắt bão (IV)

88.       ngân hà

89.       địa cầu bùng nổ thông tin

90.       hiệu ứng nhà kính

91.       vi tính cho trái tim

92.       ánh sao (I)

93.       liễu rủ (II)

94.       nến hồng (III)

95.       hạt máu (IV)

96.       tem thượng cổ và phố (I)

97.       tem điện tử và yêu (II)

98.       tem thiên giới và đời (III)

99.       tem tuổi nhỏ và mộng (IV)

100.    cơ khí (I)

101.    con gái làng và trạm giống (II)

102.    xe máy và máy-cùng-hát (III)

103.    thuỷ lợi (IV)

 ◘  phụ bản 3: Chắt chiu

104.    chữ thập ngoặc và kẻ sĩ…

105.    Quốc Xã và Gơ-ben

106.    nghĩ về toà án

107.    thức giấc, mảnh đất da vàng và 1973 (I)

108.    biển đời (II)

109.    giằng xé (III)

110.    mũi tên, sống của chết (IV)

111.    trấu và men rượu (V)

112.    giữa tấn tuồng sấm sét (VI)

113.    kính tặng quê nhà (I)

114.    chất độc (II)

115.    “Nhật kí người điên” (III)

116.    đêm tối

117.    trái đỏ

118.    1991

119.    kĩ nghệ

120.    tâm hồn Trăm Việt (I)

121.    ca dao Nam Ai Nam Bình (II)

122.    gốc giọng Thạch Sanh (III)

123.    trong vòng tay biên giới (IV)

124.    “nhược tiểu”…

125.    bão khơi

126.    từ 1982

127.    đôi mắt bốn nghìn năm

128.    nhịp điệu vỉa hè, kinh điển

129.    ở ngã ba, biển tên đường

130.    Hàn nho và Tài tử đa cùng

131.    với Tùng…

132.    Gióng, người con của trời (I)

133.    Thạch Sanh, khát vọng từ đất (II)

134.    dọc đường

135.    mỗi người

136.    lúc nhìn

137.    nhà thơ

138.    trà thơ (I)

139.    bút thơ (II)

140.    sống thơ (III)

141.    nghiệp thơ (IV)

142.    trắng giấy (I)

143.    trắng khăn (II)

144.    trắng tay (III)

145.    trắng tranh (IV)

146.    im lìm (I)

147.    rong chơi (II)

148.    thung thăng (III)

149.    tầm phơ (IV)

150.    xem tranh tuổi thơ

151.    nhìn đốm lửa thuốc lá

152.    vườn cây đời (bìa 4)      

 ◘  phụ bản 4: Cuối cùng xin một lần cảm ơn (trong Hát chiêu hồn mình) – Nguyễn Long phổ nhạc

153.     Tiếng chuông xưa (trong Nắng và mưa) &

 ◘  phụ bản 5: Tiếng chuông xưa cũ – Lê Văn Hoà

             phổ nhạc

 ◘   Bạt của Hoàng Dũng

 ◘   Mục lục

 

TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN

 

 

DANH MỤC TÁC PHẨM & BIÊN KHẢO

CỦA TÁC GIẢ

(TÍNH ĐẾN 2005)

 

TRẦN XUÂN AN

sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;

dân tộc: Kinh (Việt Nam);

quê gốc: Quảng Trị;

tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Việt, 

Đại học Sư phạm Huế

(khóa 1974 – 1978);

dạy phổ thông trung học ở Lâm Đồng

(1978 – 1983);

hiện chuyên sáng tác, nghiên cứu tại TP. HCM.

(hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.)

 

        Tác phẩm đã xuất bản:

1.      Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.

2.      Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.

3.      Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.

4.      Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.

5.      Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.

6.      Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.

7.      Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.

8.      Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.

9.      Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.

10.  Sen đỏ, bài thơ hòa bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.

11.  Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM., 2004.

12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình, 2004.

 

Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo (*):

13.  Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 & 2003.

14.  Thơ những mùa hương, thơ.

15.  Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.

16.  Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.

 

  Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo (*):

17.  Thơ Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.

18.  Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.

19.  Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.

20.  Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003.

21.  Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 2004.

22.  Tiểu luận, Tcđt. Giao Điểm, 2005

 

Tặng thưởng, giải thưởng:

1.      Báo Văn nghệ giải phóng, 1975.

2.      Giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.

 

(*) Tất cả các tác phẩm, soạn phẩm biên khảo đã được xếp chữ vi tính, ấn hành với phạm vi từ 10 đến 20 bản sách (gửi các nhà xuất bản, các nhà nghiên cứu, các người bà con và một số bạn thân), trong khi chờ giấy phép và điều kiện để có thể xuất bản rộng rãi. TXA.

 

  

 

  

 

 

 

ĐỂ HIỂU MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ

VÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ:

Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “kẻ thù

lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp”, “những người trung nghĩa từ xưa,

tưởng không hơn được”,

 

XIN TÌM ĐỌC:

 

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN

NGUYỄN VĂN TƯỜNG

(1824 – 1886)

 

(truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử)

trọn bộ 4 tập (985 tr. 16 x 24 cm)

 

Tác giả: TRẦN XUÂN AN

 

Hội đồng Tư vấn, Phản biện & Giám định

thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam

giám định.

Tổng Thư kí Hội Khoa học lịch sử Việt Nam

DƯƠNG TRUNG QUỐC

viết lời giới thiệu.

 

NXB. VĂN NGHỆ TP. HCM. ấn hành, 12. 2004

FAHASA phát hành

 

 

 

KẺ BỊ NÉM VÀO BÃO

tập thơ

TRẦN XUÂN AN

1995

NHÀ XUẤT BẢN TRẺ

161B Lý Chính Thắng, Quận 3, TP. HCM.

 

 

Chịu trách nhiệm xuất bản:

LÊ HOÀNG

Biên tập:

THÁI THĂNG LONG

 

Tranh bìa: Giữa bão, NGUYỄN THÁI TUẤN

Ảnh tác giả: NGUYỄN NGỌC KHÔI – VÂN ANH

Phụ bản: TRẦN XUÂN AN (vẽ), NGUYỄN LONG,

LÊ VĂN HOÀ (nhạc)

Sửa bản in: Tác giả

Xếp trang, vi tính: LAN ĐÌNH, LƯƠNG BẰNG VINH

và Cơ sở 220/200 Lê Văn Sĩ, Quận 3, TP. HCM.

 

 

 

 

In 800 cuốn, khổ 13 x 19 cm tại Xưởng in Tuần báo Văn Nghệ TP. HCM.. Số đăng kí kế hoạch: 666/210, Cục Xuất bản cấp này 28-11-1994. Giấy phép số 175 TN/95, NXB. Trẻ cấp ngày 21-04-1995. In xong và nộp lưu chiểu: tháng 5-1995.

 

 

 

Giá: 6.500đ

 

Bìa 3

 

 

Phần gấp bìa 4:

 

 

TRẦN XUÂN AN

Sinh ngày 10. 11. 1956

tại Huế

Quê gốc (*): Gio Linh, Quảng Trị

Đã và đang cộng tác với các báo chí.

 

ĐÃ XUẤT BẢN

(tính đến 1995):

 

NẮNG VÀ MƯA, Hội VHNT. Quảng Trị xuất bản, 1991

HÁT CHIÊU HỒN MÌNH, NXB. Đồng Nai, 1992

TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG, NXB. Văn Nghệ TP. HCM.

KẺ BỊ NÉM VÀO BÃO, NXB. Trẻ TP. HCM., 1995

 

SẼ XUẤT BẢN:

 

LẶNG LẼ Ở PHỐ (*)

HÁT VỚI ĐỜI (**)

 

 

cước chú ở tr. A (phần gấp bìa 4):

Nhà văn Trần Phong Giao nguyên là thư kí toà soạn Bán nguyệt san Văn (thập niên 1960 – 1970…) tại Sài Gòn (Tp. HCM.).

                                 (Chú thích ngày 20. 03. 2005).

(*) Đúng ra, quê quán từ đời thân sinh là Gio Linh (Do Linh), Quảng Trị; còn quê gốc là An Cư, Triệu Phước, Triệu Phong, Quảng Trị.                       

(*) Đây là tập thơ được sáng tác trước tập Kẻ bị ném vào bão, nhưng lại được NXB. Trẻ TP. HCM. cấp giấy phép sau, tuy cũng trong năm 1995.        

(**) Khi xuất bản có tên là Hát với đời, ơi thương mến.

                                 (Chú thích ngày 20. 03. 2005).

 

 

Bìa 4

 

 

 

 

Ảnh chân dung tác giả

 

 

VƯỜN CÂY ĐỜI

 

có thể không cần nữa câu thơ gọi mùa?

sự sống tự hát lên tiếng nói

xanh mướt lá, trái vàng tươi đỏ chói

nhưng bóng ai đăm đắm

trong long lanh hạt mưa…

 

   TRẦN XUÂN AN

 

(  hết  )

 

Trở về trang chủ

                 Cập nhật: 06/30/09

                 (tháng / ngày / năm)

 

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01-5 HB7 (2007) = 15-3 Đinh hợi HB7