o. Trần Xuân An (bs. & kc.) - Thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) - Tệp 15
Web Tác giả Trần Xuân An
Trần Xuân An
biên soạn (tổ chức nội dung, khảo luận, bị chú các bài khảo luận của các tác giả,
chú giải thơ, chuyển ra ngôn ngữ thơ
trên cơ sở Thi tập chữ Hán do Nnc. Trần Viết Ngạc sưu tầm,
bản phiên dịch của Nnc. Trần Đại Vinh, Nnc. Vũ Đức Sao Biển, Nnc. Nguyễn Tôn Nhan
[Ts. Ngô Thời Đôn hiệu đính các bản dịch]).
Xem phần nguyên tác chữ Hán (hình ảnh quét chụp [scan]):
http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com
http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com
Bài 59
HẠNH THÚY VÂN SƠN
1. Thúy Vân hà xứ thị
Đột ngột quần phong tiền
Quần phong nhất tề hạ
Độ thủy độc hoành phiên
5. Hành cung bàng kì trắc
Linh tích trĩ kì điên
Đôi nhiên ngọa thạch lão
Sâm nhiên cổ (a) mộc tiên
Lục âm vô hạ thử
10. Thúy sắc hữu xuân yên
Điểu ngữ thần chung minh
Tịch dương mê (mi) lộc miên
Hoàn liệt mạc phỉ sơn
Thúy Vân hà kì nhiên
15. Thẩn hữu thần thao chu
Nhất hoằng thanh thả nghiên
Thừa hứng phục đăng lâu
Nhất đới lạc bình điền
Mỹ tai danh thắng địa!
20. Thần du lịch hữu niên
Ngự kiều liễn lộ xứ
Cửu dĩ tĩnh trần quyên
Phùng kim hạ ngũ nguyệt
Tích (b) dư nguyệt phục viên
25. Thiên tử mệnh duyệt vũ
Chu sư hàm tỉ kiên
Triêu phát Hương Giang tân
Tiền hậu như thiền liên
Vãn khai Thuận Trực áp (sạp)
30. Thiều thiều vân thủy thiên
Vạn trạo phù trung lưu
Quân khí mộ ích kiên
Chu khinh phong tự sinh
Phong vi thủy tự liên
35. Thúy Vân tiệm giác cận
Ngật lập như trữ diên
Đăng hoa thủy tạ mãn
Nhiêu (nghiêu) tử nghỉ lâu thuyền
Tiên trượng quang như họa
40. Bồng đảo bất tiêu thiền.
(a) Phụng châu điểm.
(b) Phụng châu điểm.
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm...
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
59
NHÀ VUA ĐI THĂM NÚI THÚY VÂN (1)
1. Thúy Vân, [núi] ấy ở đâu?
Cao ngất một mình [giữa] những ngọn núi phía trước
Những ngọn núi cùng một lần hạ thấp xuống
Vượt qua mặt nước chỉ một mình [núi ấy] đứng
ngang, có vẻ dáng phong lưu, văn nhã
5. Cung để vua đi thăm ghé nghỉ (2) ở bên cạnh, chênh
chếch với nơi ấy
Dấu tích linh thiêng đứng lẻ loi [ở] đỉnh cao nơi ấy
Chất chồng nhưng nằm [kề nhau]: đá tảng cứng bền
(già nua)
Rậm rạp, ấy là cây cối lâu đời (a) [vẫn] rắn chắc (tươi
đẹp)
Màu xanh lá, bóng râm [như làm cho] nắng mùa hè
không có
10. Sắc biếc có khói (sương) mùa xuân!
Tiếng nói [của] chim chóc [cùng] tiếng chuông [của]
cung vua vang lên
Buổi chiều hôm, hươu nai [đến] ngủ
[Quân] vây quanh, giăng bày [dù] núi không có kẻ cướp
Mây biếc sao biếc thế!
15. Huống chi những chiếc thuyền duyệt binh [cũng] có
tâm hồn
Nước rộng mà sâu, trong vắt, thanh thản, đẹp tươi
[như] một
Nhân lên niềm hứng khởi, [ta] theo lên lầu
Một dải [đất cơ hồ] rơi xuống [thành] ruộng đồng
bằng phẳng
Đẹp tươi thay [cõi] đất danh thắng!
20. Cung vua (3) đi trải nghiệm [nơi đây] (trải qua) [dễ]
có [cả] năm [trời]
Cầu vua đi, đường xe vua qua [ở] cõi [này]
Lâu rồi vốn dĩ tĩnh lặng, sạch bụi
Gặp nay, tháng năm mùa hè
Dấu xưa (b), trăng lại tròn
25. Đấng con trời ra lệnh duyệt võ (: duyệt quân)
Đoàn lính [thủy, giang] thuyền, tất thảy đều sánh
nhau, chen [vai]
Sáng sớm xuất phát ở bến sông Hương
Tiền quân, hậu quân như đàn ve ve nối nhau
không dứt
Buổi chiều mở đập Thuận Trực (4)
30. Cao vót, xa xăm [là] mây, nước, vòm trời
[Hàng] vạn mái chèo nổi [lướt] giữa [dòng sông] chảy
Khí thế quân lính, buổi chiều, càng thêm vững mạnh
Thuyền nhẹ [lướt], gió như [do thuyền mà] tự tạo ra
Gió nhẹ [thổi], nước cơ hồ [do gió mà] tự lan sóng
35. [Núi] Thúy Vân dần dần thấy gần lại
[Núi] đứng nghiêm như chờ đón đã lâu
Hoa đèn đầy nhà thủy tạ
Những chàng trai, cô nàng hái củi đậu thuyền [kề]
thuyền lầu (5)
Gươm, đao, gậy, côn [của] tiên, đạo sĩ [múa lên], ánh
sáng [tóa ra] như [bức] tranh vẽ
40. Đảo Bồng (6) [vẫn] không mất [nét] thiền [tâm] (7).
(1) Núi Thúy Vân (Túy Vân), tỉnh Thừa Thiên - Huế. Xem chú thích (1), bản dịch nghĩa bài 60.
(2) Hành cung Thúy Vân (xem ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 52).
(3) Cung vua: chỉ chung cả vợ và con (nếu có), cùng các thái giám, thị tì đi theo vua.
(4) Thuận Trực, cách kinh thành 15 km, bên bờ sông Lợi Giang, có một khu rừng cấm có tên ấy. Chắc trùng tên với hành cung được nhắc đến, vốn ở xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, xa hơn nhiều (xem chú thích của Viện Sử học, tập 31, sđd., tr. 258).
Nếu không phải là địa danh, xin tạm dịch: “Buổi chiều mở xuôi thẳng [dòng nước qua] đập”. Áp (còn đọc là sạp): đập nước chắn ngang sông, chỉ có một cánh cửa, khi mở đủ cho từng chiếc thuyền đi qua (nên chiếc này, chiếc kia nối nhau; đứng ở xa, trên đồi cao, trông như đàn ve nối đuôi nhau trên cành cây), [HVTĐ., sđd., tr. 719].
(5) Đây là một chi tiết khá lạ, bởi thời phong kiến có luật “phạm tất” (vi phạm lối cấm hay chỗ cấm lúc vua đi hoặc ghé lại). Có lẽ là hình ảnh mộng tưởng “Hoa Tư” (xem chú thích (9) bản dịch nghĩa bài số 55), hoặc “nghiêu tử” đây là các vị sư (xem từ “tiên trượng”, từ “Bồng đảo”, “thiền” ở hai câu dưới).
(6) Đảo Bồng: đảo Bồng Lai, một trong ba ngọn núi của tiên cảnh Bột Hải, có tính chất thần thoại.
(7) Xin lưu ý câu cuối này. Suốt bài thơ diễn tả sự hùng tráng của quân lính, nhưng kết thúc bằng một nét thanh tịnh ở cõi bồng lai của đạo Phật – cõi hiện thực. Vì sự thanh tịnh mà hùng tráng; hùng tráng để cho tâm và cảnh thanh tịnh trong ánh từ bi. Thanh tịnh, từ bi cùng với hùng tráng, với ý chí, quyết tâm diệt giặc ngoại xâm là hai mặt của một chỉnh thể tâm thức Phật giáo Việt Nam cổ truyền: “Đại hùng, đại lực, đại từ bi”.
Ngày nay, thế giới hầu như đi vào chiến tranh kinh tế. Do đó, phải hùng mạnh cả về kinh tế, chứ không chỉ quốc phòng, mà then chốt vẫn là khoa học - kĩ thuật (công nghệ).
(a) “Kính [nhận nét] điểm [bằng bút] son [của vua Tự Đức]”.
(b) “Kính [nhận nét] điểm [bằng bút] son [của vua Tự Đức]”.
59
NHÀ VUA ĐI THĂM NÚI THÚY VÂN
1. Nơi đâu là Thúy Vân
Riêng vút giữa dãy trước
Dãy núi, thấp một lần
Vượt nước, một núi văn
5. Cạnh hành cung, chênh chếch
Dấu đỉnh lẻ, linh san!
Đá xưa chồng, nằm vững
Cây cổ (a) rậm đẹp ngàn
Bóng xanh không nắng hạ
10. Sắc biếc ngút khói xuân
Lời chim, chuông sớm vang
Nắng chiều, hươu nai ngủ
Không phỉ núi, quân giăng
Thúy Vân! Thúy Vân!
– mây biếc – sao biếc thế! (1)
15. Thuyền thao luyện có tâm
Nước sâu, trong một vẻ
Lên lầu, hứng càng nhân
Một dải rơi: ruộng bằng!
Đẹp quá nơi danh thắng!
20. Năm nay vua hoài thăm
Đường vua, cầu vua sang
Đã lâu sạch bụi lá
Gặp nay tháng năm hạ
Dấu xưa (b) lại tròn trăng
25. Lệnh duyệt quân, vua ban
Sánh vai, thế lính vững
Sớm, từ bờ Hương Giang
Đàn ve: tiền, hậu quân!
Chiều, mở đập Thuận Trực (2)
30. Trời, mây, nước mênh mang
Vạn chèo trên dòng lướt
Hùng khí chiều hiên ngang
Gió tự sinh, thuyền vút
Gió khẽ, sóng tự lan
35. Dần đến gần Thúy Vân
Núi đứng nghiêm đợi đón
Thủy tạ đèn hoa giăng
Ghe tiều ghé thuyền tầng
Như tranh, gươm bụt múa
40. Đảo Bồng: thiền không tan!
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(1) Có thể rút gọn câu này lại, theo thể 5 chữ:
“Mây biếc sao biếc thế!”.
hoặc:
“Thúy Vân, sao biếc quá!”
(a), (b) Xin xem ở cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.
(2) “Chiều, mở đập xuôi thẳng”. Xin xem chú thích (4) của bản dịch nghĩa bài này.
Bài 60
THÚY VÂN SƠN
Phụng châu phê:
“Tự toàn hảo. Khâm thử!” (a)
Bất đồng linh thái duy nam củng
Thiên tráng thần cư tác thử sơn
Chướng (b) khứ hoành lan ngư phiếm ổn
Ấm lưu cổ thụ điểu quy nhàn
Viễn khan yêm ái vân thiên tụ
Cận ấp trừng thanh nguyệt nhất loan
Tự (c) tích thắng du đa thử địa
Cửu trùng tâm sự trấp niên gian.
(b), (c) Phụng châu điểm.
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
60
NÚI THÚY VÂN (1) (a)
[Tuy] không [lớn] bằng núi Linh Thái, [song núi Thuý Vân]
vẫn chầu về [phương] Nam
[Dưới] bầu trời hùng tráng, cung vua ở (tọa lạc), [tận
sâu xa, chính điều đó đã] tạo nên ngọn núi này
[Ấy là] tấm bình phong (b) loại trừ [các đợt] sóng lớn
[tiến vào hàng] ngang, dân đánh cá lênh đênh
[trên đầm phá một cách] yên ổn
[Núi có] bóng mát đọng lại [ở bao] cây cổ xưa (: cổ thụ),
chim chóc [bay] về nhàn nhã
Nhìn xa xa [trông như] ướp muối [trắng], [hơi mây]
ngùn ngụt, mây [che trên] ngàn ngọn núi
Lui [lại], gần gũi, [thấy] trong lặng, xanh biếc [như lọc],
[ánh] trăng [trải khắp] một đầm phá
Từ (c) trưóc, đã đi ngắm cảnh đẹp nhiều [lần ở] đất này
[Vẫn biết] nỗi lòng [của] cửu trùng (3) [trong] thời gian
hai mươi năm.
(1) Núi Thúy Vân, thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 130 ghi: “Ở phía đông bắc huyện Phú Lộc; phía tây núi kề phá Hà Trung; trước [núi này] gọi là Mĩ Am, năm Minh Mệnh thứ 6, cho tên là núi Thúy Hoa, năm Thiệu Trị thứ 1 đổi tên hiện nay; có bài bia ghi thắng tích Thúy Vân”.
(2) Linh Thái còn là tên khác của núi Quy Sơn (núi Ruà) [ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 130 - 131).
(3) Cửu trùng: chín tầng; chỉ nhà vua.
(a) “Kính [nhận] lời phê bằng mực son đỏ [của vua Tự Đức]: “Gần như hay đẹp hoàn toàn. Kính vâng [theo] đó [nhé]!””.
(b) “Kính [nhận] điểm nét son đỏ [của vua Tự Đức]”.
(c) “Kính [nhận] điểm nét son đỏ [của vua Tự Đức]”.
60
NÚI THÚY VÂN (a)
Không cùng Rùa thánh, nam chầu đây
Vua ở, trời hùng tạo núi này
Dải (b) chặn sóng ngang, buồm thả ổn
Bóng lưu cây cổ, chim nhàn đầy
Ướp mờ xa ngắm nguồn mây tỏa
Lọc biếc gần lui phá nguyệt say
Từ (c) trước viếng hoài miền cảnh đẹp
Hai mươi năm! Lòng vua chưa phai...
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(a), (b), (c) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.
(1) “Lòng vua, hai chục năm, chưa phai…”.
Hoặc:
“Lòng vua hai kỉ cứ buồn cay… ”.
Bài 61
TƯ HIỀN TẤN
Bình thành Vũ tạc sơ
Trạch quốc điện môn lư
Liễu nhiễu quần phong bão
Oanh hồi nhất thủy từ
Hà Trung thu tích hậu
Thuận tấn chuyển lưu thư
Ba ổn trung lưu tiếp
Phàm quy viễn phố ngư
Trùng dương thông nhãn xứ
Vạn hác củng Triều dư
Vi (vị) (a) báo hoàn trung thủy
Mang mang hải lượng hư.
Phụng châu phê: Nhĩ thức lực giai khả đáo, bất chuyên cử nghiệp dĩ dã; đãn bạc, chi bất vi, nhĩ diệc bất hạ dã; hà xích, phiền; nhị thủ giai vô tì, vô biểu hiện (kiến).
Khâm thử! (b)
(a) Phụng châu điểm.
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
(và trích dịch ở bài giới thiệu).
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
61
CỬA BIỂN HẢI PHÒNG TƯ HIỀN (1)
[Công] bình định, làm nên (2)
[của] vua Vũ (3) là đã rạch ròi, thông suốt [bờ cõi]
Ơn huệ [của] nước [là đã giúp dân] vững chãi nhà cửa
Những ngọn núi quanh co, vấn quanh, ôm lấy
Con suối [nhỏ] vòng quanh lại [một dòng nước] chậm rãi
[Phá] Hà Trung (4) thu lấy, dồn chứa đầy ắp
Cửa hải phòng Thuận [An] chuyển động,
tuôn chảy thư thả
Sóng êm ả, giữa dòng [là thuyền với] mái chèo
[Các] cánh buồm quay về bến cá xa
Biển cả (: trùng dương) [là] nơi mở thông [tầm] mắt
Nước khe núi, ao hồ chầu về ư?
Bởi (a) [muốn] báo đền trong cõi hoàn vũ (cõi đất trời)
[bằng] nước
[Nên] lai láng, xa xăm; lượng biển (sức chứa của biển,
tấm lòng của biển) [thế đấy mà cũng như thể]
không có gì (: hư vô)! (b) (5)
(1) Thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. Xem chú thích (2), bản dịch nghĩa, bài 63.
(2) Bình thành: do bốn chữ “địa bình thiên thành” (sửa sang, tổ chức lại việc dưới đất; làm cho nên, cho an ổn sự lệ trên trời). Nghĩa bóng: sửa trị mọi việc quan trọng. [Bửu Kế, TĐTNTN., sđd., tr. 71].
(3) Vua Vũ ở Trung Hoa cổ đại, lập nên nhà Hạ.
(4) Cửa biển phòng thủ Thuận An và Tư Hiền thuộc đất kinh sư (thủ đô, Thừa Thiên – Quảng Trị) do triều đình trực tiếp quản lí, chỉ đạo. Xem chú thích (1) về cửa Tư Hiền, bản dịch nghĩa bài thơ số 58 và chú thích (2) bài số 63.
(5) Khái niệm “hư vô” của Lão Tử. Xin xem chú thích (5) của bản dịch nghĩa bài số 34 và chú thích (13) ở bản dịch nghĩa bài số 65.
(a) “Kính [nhận] điểm bút son [của vua]”.
(b) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua]: “Kiến thức của ngươi đều thấu đáo, [nên nói] không chuyên về dạng chỉ học cốt để thi cử mà thôi, là phải vậy! [Nhưng] chỉ một mình [ngươi làm thơ] ít ỏi; ấy là [bởi] không [chịu] làm; vậy cũng thật [ngươi] cũng không được rảnh rỗi. Sao một thước [chữ = một, hai cột chữ thôi]? Bận việc quá ư? Hai bài đều không có tì vết gì, [nhưng] cũng không lộ liễu gì [tức là ý tứ kín đáo; sâu kín là ưu điểm trong thơ]! Kính vâng đấy nhé!”” – [Lời châu phê của vua Tự Đức].
Hẳn nhà thơ Nguyễn Văn Tường không chỉ bận công việc của một thượng thư Bộ Hộ, Thương bạc đại thần (phụ trách ngoại giao), mà ông còn bận lòng cho những bài thơ tâm huyết của mình. Thơ thù tạc, đúng hơn là thơ “tụng ca”, làm để xướng họa với đế vương, hẳn là quá đỗi... khó lòng!
61
CỬA BIỂN HẢI PHÒNG TƯ HIỀN
Bình thành như Vũ thưa
Ơn nước, xóm vàng mùa
Núi lượn từng cung ấp
Khe vòng một suối thư
Hà Trung thu chứa mộng
Cửa Thuận chuyển xuôi mơ
Chèo rẽ dòng sóng lặng
Buồm về bến cá mờ
Bể khơi thông mắt đấy!
Ngòi lạch chầu triều ư?
(a) Đền đất trời: tình nước
Biển lòng rộng hư vô! (b)
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(a), (b) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.
Bài 62
NGUYÊN ĐÁN TẢO CỨ QUẢNG YÊN
TUẦN PHỦ HỒ TRỌNG LIỄN MÃ ĐỆ
TRIỆP TỰ QUAN BINH ĐẠP BÌNH
PHÙ LONG PHỈ SÀO,
NHÂN CHÍ KÌ SỰ
1. Ngã hoàng phủ thử chước khoan nghiêm
Thiên đạo âm dương hỗ hiển tiềm
Hàn uy phủ khước đông tiền lạp
Xuân dương dĩ phổ nhân đồng chiêm
5. Lí đoan vạn tượng chính tân sảng
Si mị tận tiêu thiên nhật lãng
Đình liệt bái khánh sâm y quan
Thúc văn tiệp tấu bình tặc đảng
Tu lai mã đệ Quảng Yên đồng
10. Hỉ kiến biên thần tự chiến công
Ngưỡng duy miếu đường thụ thành toán
Kháp triï thái vận phương hưởng thông
Ngã quốc hải đông dữ Thanh tiếp
Nhất đới cát đồ (1) liên u chung
15. Thanh lại kế cùng lân vi hác
Trì ngư vô đoan tao bỉ hung
Thanh tướng lưỡng lâm vô thốn hiệu
Đạn nan chung thị di khấu sao
Kình huyệt thố quật một gian xuất
20. Niên lai biên manh khổ náo sao
Thuấn đức đản phu giác giã mê
Tự tây tự đông ngật (cật) thanh giáo
Tranh nại động đình chướng kí thâm
Nan cách nhĩ tâm dịch nhĩ mạo
25. Chu sư ninh hoãn tiêm cừ khôi
Phù Long nhất cổ thiên hiểm thôi
Tướng biền dụng mệnh vô kiên địch
Thanh linh hách trạc võ công khôi
Kỉ công hựu thích hành khánh điển
30. Phàm bách nhung thần thị chi miễn
Thùy vị ba đào bất khả khai
Vạn lí trùng dương tương tận quyển
Vãng phục hóa cơ thuấn tức chuyển
Tương cơ yếu tại lượng thâm thiển
35. Tự cương duy thánh thể càn nguyên
36. Ngu thần thiết nguyện sách nô kiển (2).
Tự Đức nhị thập bát niên, chính nguyệt, nhị thập nhật, thần Nguyễn, phụng ứng chế (a).
(1) Cát Bà, Đồ Sơn?
(2) [kiển? trại?].
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
(và trích dịch ở bài giới thiệu)
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
62
SÁNG SỚM NGUYÊN ĐÁN, THEO TUẦN
PHỦ QUẢNG YÊN (1) HỒ TRỌNG LIỄN (2)
[QUA] NGỰA [TRẠM] ĐỆ TRÌNH TẬP TÂU
[VỀ VIỆC] QUAN QUÂN DẸP YÊN Ổ PHỈ
[TẠI] PHÙ LONG (3), NHÂN [ĐÓ] GHI CHÉP
[LẠI] VIỆC ẤY
1. Vua ta vỗ về [giặc] ấy [để tình hình yên ổn],
lường liệu, châm chước giữa khoan thứ
[và] nghiêm khắc
Đạo Trời, âm [và] dương cùng [tác động] lẫn
nhau, hiển hiện hoặc ẩn kín
[Sự] oai nghiêm lạnh lùng vừa xua đuổi mùa đông
trước [tháng] cuối [năm]
Ánh sáng mùa xuân đã [tỏa] khắp, [mọi] người cùng
ngẩng mặt mà trông
5. [Việc] sửa trị [một cách] ngay thẳng vạn điều (phép
tắc) [cho] đúng đắn, mới mẻ, sáng sủa
Ma quỷ tan hết, ánh ngày [của] bầu trời tươi sáng
Sắp hàng ngang [ở] triều, [các quan] lạy mừng, áo
mão quan viên nghiêm chỉnh
Bất chợt, nghe tin báo về, tấu trình [đã] bình định
bè đảng giặc phỉ
Bỗng ngựa [trạm] (4) đệ trình cái ống tre [đựng công
văn của tỉnh] Quảng Yên (3)
10. Vui mừng thấy kẻ bề tôi [ở] biên ải trình bày
chiến công
Ngẩng mặt suy tưởng (= kính nghĩ), triều đình trao
cho kế sách [để] làm xong việc [dẹp phỉ]
Vừa đúng gặp được vận tốt [nên] mới hưởng sự vẻ
vang (thông đạt)
Phía đông biển nước ta với [biển nước] Thanh (5)
[ranh giới] liền [nhau] (6)
Một dải [đất], loại cây cỏ leo bò [trên đất], bùn sình
[cùng liền], liền [cả tiếng] chuông sâu lắng
15. Quan lại [nhà] Thanh tính hết kế [vẫn để tình] láng
giềng thành ao, lạch (hang hốc)
Cá ao, không nguyên cớ (vô cớ), gặp phải
sự hung ác kia (7)
Tướng [nước] Thanh hai lần vào [trận], không [một]
tấc (8) hiệu quả
Ngại [trước] khó khăn, cuối cùng, [chính việc] ấy [đã]
để sót bọn giặc cướp bóc
Hang cá kình, hang thỏ, mở (đào) ra [nơi] chìm khuất
(hầm ngầm)
20. Năm qua, dân biên ải đi ngang [phải] đắng [cay],
náo động
Đức [của] vua Thuấn (9) [hóa ra là] sự lừa dối đủ
[cách], mê mờ ấy là tỉnh táo!
Từ phía tây, từ phía đông không còn cả dự dạy dỗ
[dù chỉ dạy dỗ bằng] tiếng nói!
Vì sao tranh đoạt [từng] cái hang, [từng] cái sân,
[từng] bức bình phong? [Sự việc này đã được] ghi
khắc sâu đậm
Khó thay đổi được tâm địa chúng mày, gương mặt
[hay hình tượng (10)] chúng mày
25. Sư đoàn (quân lính) [lần lượt thay phiên theo]
chu kì (11) cớ sao lại ngừng việc giết sạch
bọn đầu đàn (thủ lĩnh của phỉ)?
Một chiếc trống Phù Long [cũng là] muôn vàn [thế
trận] hiểm độc xô lấp [hang ổ ở núi]
Tướng võ vâng mệnh lệnh [vua ban], không còn quân
địch vững mạnh
Oai linh [của] giọng tiếng, sự rửa [hờn] hừng hực lửa,
công lao chiến đấu bậc nhất [của tướng sĩ ta]!
Ghi chép công lao lại đúng dịp tiến hành điển
lễ vui mừng (12)
30. Hễ là [người thuộc vào] hàng trăm quan võ bề tôi,
[được] báo cho biết để ra sức
Ai bảo sóng lớn không có thể loại bỏ
(làm êm lặng) được?
Vạn dặm biển trùng trùng sắp sửa cuốn sạch tất thảy
[bọn giặc đầu sỏ]
Đi qua – trở lại [theo lẽ âm dương tuần hoàn], cái máy
chuyển hóa (: máy huyền vi) (13), [trong] chớp
mắt, [trong một nhịp] hơi thở, [sẽ] chuyển xoay
Cùng với cái máy [tạo hóa] (13), [việc] trọng yếu còn
[phải] đo lường nông hay sâu
35. Tự mình [ở] chỗ giới hạn [của mình mà] suy nghiệm:
thánh thể (14) [nhà vua là] khởi đầu
của quẻ Càn (15)
36. Kẻ bề tôi ngu muội (16) trộm mong mỏi
[tự] thúc roi con ngựa xấu chậm chạp.
(1) Tỉnh Quảng Yên thời Nguyễn, nay thuộc Quảng Ninh.
(2) Hồ Trọng Đỉnh (xem ĐNTL.CB., sđd., tập 33, tr. 159).
(3) Phù Long (tên một hòn đảo), thuộc tỉnh Quảng Yên xưa (xem ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 32).
(4) Ngày xưa, để đưa công văn và tiện cho nhiều việc khác của nhà nước phong kiến, người ta thiết lập các trạm dọc đường, phương tiện là ngựa, gọi là ngựa trạm.
(5), (6) Biển Bắc Bộ, ngoài khơi xa, có hải phận của đảo Hải Nam thuộc Trung Hoa. Trung Hoa bấy giờ là Đại Thanh.
(7) Cách nói ẩn dụ: nhân dân ta (cá ao) trước hiểm hoạ là bọn giặc phỉ, tàn dư Thái Bình thiên quốc Tàu.
(8) Tướng Thanh: Phùng Tử Tài, Đảng Mẫn Tuyên... Một tấc thước ta: 4 cm; tức là một chút, một tí...
(9) Vua Thuấn: vua nhà Ngu bên Tàu, thời cổ xưa. Ở đây là chỉ quân Thanh với ý mỉa mai.
(10) Chỉ bọn giặc Cờ (tàn dư của Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa). Xin xem chú thích (2) bản dịch nghĩa bài 4.
(11) Vua Chu? Chữ “chu” là chu kì? Với nghĩa nào cũng nhằm chỉ quan quân thuộc triều Nguyễn nước ta. Vua Chu, thuộc cổ đại Trung Hoa, vốn là biểu tượng cho minh quân, được lí tưởng hóa.
(12) Dịp mừng xuân Ất hợi, 1875 [xem chú thích (2) phía trên]. Dịp này, Tự Đức có làm một bài thơ về chiến thắng ở Phù Long.
(13) Quan niệm về tạo hóa của nho sĩ ngày xưa. Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc đã từng viết về “cơ trần”:
“Máy huyền vi đóng mở khôn lường...”
(CONK., d. 50)
“Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán...”
(CONK., d. 73)
“Cái quay búng sẵn trên trời...”
(CONK., d. 91)
Ở đây, nhà thơ Nguyễn Văn Tường quan niệm theo lẽ biến dịch âm – dương của Kinh dịch, một quan điểm biện chứng Phương Đông (xem lại câu 1, 2).
(14) “Thánh thể” (thân thể của bậc thánh, thần), từ tụng xưng quy ước về “lễ” (một giềng mối lớn, thường hằng, trong tam cương, ngũ thường). Đây là “lễ” trong cách xưng hô trước “thánh thượng”, “thiên tử” của kẻ bề tôi (hạng tôi tớ) (!). “Trẫm”, lại là đường chỉ khâu áo giáp cho binh tướng.
(15) Quẻ Càn tượng trưng cho Trời, ở đây chỉ nhà vua. Xem chú thích (14), bên trên.
(16) “Ngu thần”, từ tự khiêm xưng của quan lại trước vua. Các kẻ sĩ, quan chức nho giáo còn dùng các từ như “bỉ nhân” (kẻ quê mùa), “thiểm” hoặc “thiểm chức” (người làm quan biết nhục nhã, xấu hổ) khi nói với kẻ dưới phận, dưới chức, so với bản thân. Đó là tập quán văn hóa ở Đông Nam Á. [Xem TĐTV., sđd., tập hạ, tr. 404].
(a) Lời tác giả Nguyễn Văn Tường cuối bài thơ:
“Ngày 20 tháng giêng, năm Tự Đức thứ hai mươi tám [1875, Ất hợi – nbs.], thần: Nguyễn, kính cẩn đáp lại bài thơ vua làm”.
62
SÁNG SỚM ĐẦU NĂM, THEO TUẦN
PHỦ QUẢNG YÊN HỒ TRỌNG LIỄN
(ĐỈNH) VỚI CÁC TẬP TẤU SỚ
ĐỆ TRÌNH QUA NGỰA TRẠM VỀ VIỆC
QUÂN BINH DẸP YÊN Ổ PHỈ TẠI PHÙ
LONG, NHÂN ĐÓ GHI CHÉP LẠI
VIỆC ẤY
1. Vua vỗ yên giặc, khoan và nghiêm
Đạo trời âm dương, kín và rõ
Trước chạp, oai lạnh đã xua đông
Ánh xuân vốn rộng, dân ngẩng trông
5. Sửa trị vạn điều, đúng, mới, sáng
Ma quỷ hết sạch, ánh trời tươi
Lệ triều lạy mừng, nghiêm áo mão
Chợt nghe tin thắng, giặc vỡ rồi!
Bỗng ngựa dâng ống, tấu Quảng Yên
10. Vui thấy chiến công quân vùng biên
Ngẩng suy, Triều đình trao kế dẹp
Vừa gặp vận tốt, vinh nối liền
Nước ta biển đông kề biển bạn
Chung ngọn cỏ bùn tiếng chuông chung
15. Thanh cạn, láng giềng thành hang hốc
Cá ao vô cớ gặp ác ngông!
Tướng Thanh hai lần không chút thắng
Ngại khó, rốt cùng sót giặc cắn
Hang kình lỗ thỏ, cướp phục hầm
20. Năm trước qua ải, dân khóc đắng!
Đức Thuấn lắm lừa?! Mê là tỉnh!
Vắng tiếng dạy khuyên, đông sang tây
Sao tranh sân, rào? Đành khắc đậm!
Khó đổi dạ mày, khuôn mặt mày!
25. Quân ta hoãn diệt đầu mục sao?
Tiếng trống Phù Long muôn hiểm:
Nhào!
Tướng võ tuân lệnh, hết giặc mãnh
Oai giọng, rửa hờn, lừng công cao
Ghi công đúng dịp mừng khánh lễ
30. Trăm quan được rõ, thêm mạnh kế
Ai bảo sóng to không thể êm?
Bể vạn dặm cuốn cùng sạch bể!
Qua – lại, máy huyền, chuyển chớp mắt
Thế cơ, lẽ trọng ở nông sâu
35. Nghĩ trong giới hạn: Càn – thánh thể
36. Tôi mong quất tôi, ngựa đua lâu (a).
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(a) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.
Bài 63
CUNG HỌA NGỰ CHẾ: ĐOAN NGỌ
VÃN PHIẾM CHU HÀNH HẠNH
TƯ HIỀN TẤN
Phụng châu phê:
“Cận lai học tiến, khả hỉ.
Khâm thử!” (a)
Huân phong vãn tống thủy sơ bình
Tam cổ thiên sưu (tao) phóng trạo hành
Chính vị duyệt phòng môn tỏa trọng
Phi quan cạnh độ phiến phàm khinh
Tà dương thiên ngoại vân phong họa
Tân nguyệt giang đầu kính hạm minh
Chu tiếp tàm vô thương bật trợ
Thừa (b) phong thượng kí phấn bằng trình.
Phụng châu phê:
“Chí khí sở vị lão nhi ích tráng” (c).
(b) Phụng châu điểm.
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm...
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
63
KÍNH HỌA THƠ NHÀ VUA LÀM: CHIỀU TỐI
NGÀY ĐOAN NGỌ (1), ĐI DU THUYỀN THEO
CUỘC ĐI THĂM CỦA HOÀNG ĐẾ ĐẾN CỬA
HẢI PHÒNG TƯ HIỀN (2) (a)
Gió lành buổi chiều hôm đẩy đưa [dòng] nước bắt đầu
lặng lờ
Ba hồi trống, ngàn (3) chiếc thuyền buông [xuống
nước vạn] mái chèo [để] khởi hành
Sự đúng đắn, [ấy là] tiến hành việc khám duyệt [đồn
lũy] phòng thủ, [những] chốt khóa cửa [biển] –
[các việc vốn được coi là] hệ trọng
Cái sai lầm, [đó là] quan hệ cạnh tranh [ở] việc vượt
sông, [các] cánh buồm – [những việc thuờng bị
xem] nhẹ! (hoặc: chẳng quan hệ gì đến chuyện đua bơi [mà] cánh buồm [nhẹ] lướt)
Vầng dương lặn (tàn, úa) ngoài trời, mây [và] ngọn núi
[như] vẽ tranh
Mặt trăng mới mọc (hoặc: trăng non) đầu sông, [tấm]
gương [và] thuyền binh [cơ hồ tự] tỏa sáng
Thuyền, mái chèo thẹn thùng không luận bàn giúp đỡ
[việc chèo chống: việc nước]
Theo (b) gió, ngõ hầu ra sức phấn kích đường [bay]
chim đại bàng (c).
(1) Đoan ngọ (đoan dương: mặt trời ngay thẳng, chiếu thẳng): 5 tháng 5 âm lịch.
(2) Tư Hiền, thuộc Thừa Thiên (xem ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 175 - 177).
(3) Ngàn, vạn (các con số tượng trưng): nhiều lắm.
(a) “Kính vâng [chép lại] lời phê bút son đỏ [của vua]: “Gần đây, học tập [có] tiến bộ. Đáng mừng. Kính theo đó””. Đúng là lời phê của đế vương!
(b) “Kính vâng [nhận] nét điểm bằng bút son đỏ [của vua]”.
(c) “Kính vâng [chép lại] lời phê bút son đỏ [của vua]: “Chí khí – điều ấy nói lên [rằng] – cứng bền (già) mà càng thêm mạnh mẽ (trai tráng)””.
63
“CHIỀU TỐI NGÀY ĐOAN NGỌ, ĐI DU
THUYỀN THEO CUỘC ĐI THĂM CỦA
HOÀNG ĐẾ ĐẾN CỬA HẢI PHÒNG TƯ
HIỀN” (a)
Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức
Chiều tiễn, nồm ru, nước lặng ngày
Trống ba, ngàn chiếc phóng chèo ngay
Khám đồn, bảo đúng: then sông tỉnh
Tranh vượt, nhìn sai: buồm lái say
Nắng xuống ngoài trời mây núi vẽ
Trăng non đầu sóng ánh thuyền lay
Lái dầm, những thẹn không lo giúp
Bừng sức gió (b) nhân, bằng vút bay (c).
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(a), (b), (c) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.
Bài 64
HÀ TRUNG ĐẠO TRUNG TÁC
Thập lí huân phong phất hạm khinh
Giang sơn toàn bức nhãn tiền trình
Quần (a) phong nam củng thần kinh tráng
Chúng thủy đông triều hải lượng hoằng
(hoành)
Tuần nhạc cửu đồng chiêm Thúy Lĩnh
Thao sư hà tất tạc Côn Minh
Thần du tận thị ưu dân kế
Đáo xứ hương bồn giáp (1) đạo nghinh.
(a) Phụng châu điểm.
(1) [hiệp?].
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
(và dịch thơ ở bài giới thiệu)
64
VIẾT TRÊN ĐƯỜNG HÀ TRUNG (1)
[Suốt] mười dặm (2) gió mát thổi [đẩy giúp], chiếc
thuyền binh nhẹ nhàng [lướt]
Toàn bức [tranh] núi sông [như] bày ra trước mắt
Mọi (a) chóp núi [các nước] phương nam đều hướng về
kinh đô nhà vua hùng tráng
Các con nước phía đông thảy chầu quanh sức chứa
(: tấm lòng) [của] biển rộng lớn
Tuần xét núi lớn, cùng ngắm lâu Thúy Lĩnh (3)
Luyện tập quân binh, đâu cần mở thông qua Côn Minh (4)
Nhà vua đi [khám duyệt] tận nơi đó, ưu tư [về] kế sách
[lập trận địa] lo cho dân
Đến nơi đến chốn [như vậy, nên] bình [xông trầm]
thơm [ở các] đường [làng], bến đò [đều dọn bày ra
để] đón chào (5).
(1) Hà Trung, thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên (không phải Hà Trung thuộc huyện Do Linh, Quảng Trị).
(2) Dặm (đơn vị đo chiều dài đường đi ngày xưa).
(3) Thúy Lĩnh: đỉnh núi Thúy Vân (nay quen gọi là Tuý Vân). Thúy Lĩnh (hay Thúy Sơn) là cách ghép, lược bớt chữ, nhưng được dùng như địa danh, nên tạm viết hoa cả hai chữ, ở trường hợp trong bài thơ này.
(4) Côn Minh: có lẽ là một thành phố ở Trung Quốc (A. Kunming, thuộc tỉnh Vân Nam). Trong thực tế, có một số lính, quan được sang nước Thanh (Trung Hoa) để tập huấn quân sự theo sự giao hảo của hai Triều đình (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 160).
(5) Nghi thức nhân dân nghênh đón nhà vua (ai không tuân theo, sẽ bị tội “bất kính” và “phạm tất” [“tất”: dọn dẹp đường sá cho vua đi]).
(a) “Kính [nhận nét] điểm son [đỏ của vua Tự Đức]”.
64
VIẾT TRÊN ĐƯỜNG HÀ TRUNG
Mười dặm gió lành thuyền vượt mau
Núi sông trước mắt – tranh phơi màu!
Kinh vua hùng mạnh, (a) Nam sơn phục
Lượng biển rộng sâu, Đông hải chầu
Xét núi, ngẫm nhìn đèo Thúy ấy
Luyện quân, cần trổ nẻo Côn đâu!
Người đi tận đó, lo dân trận (1)
Nơi đến, bình hương lối nhỏ chào.
(bản biên soạn)
(1) Nguyên văn: “dân kế” (kế sách vì dân, lo cho dân; trận thế lòng dân [lấy sự đoàn kết lòng dân làm trận địa đánh giặc]; trận thế của dân).
(a) Xin xem cuối phần chú thích bản dịch nghĩa bài này.
Bài 65
CUNG HỌA NGỰ CHẾ:
“THỰC NGẠC NGƯ”
1. Duy bỉ ngạc hề hà như bỉ
Đổ vật linh nhân tích niệm khỉ (khởi)
Vô ngạc nguyên phi vi ngạc bi
Hữu ngạc năng vô nhân ngạc hỉ
5. Nam trung địa sản tố vi nhiêu
Ngạc sinh kì gian nhất vật nhĩ
Mậu đức phổ đồng cảm nhược thiên
Noãn dục tằng kinh kỉ niên kỉ
Quy giao lượng bất thiểm sở sinh
10. Khởi loại trường xà dữ phong thỉ
Tuy phi (a) giảo sính vi uyên khu
Tha tộc khẳng linh bức xứ thử
Giang hồ hoành khí thiếu tuần nhân
Miếu điện hoàn kham cung hưởng tự
15. Tuế thường sung cống phi hảo trân
Vật chí thổ nghi bất khả dĩ
Tam thập niên lai nhị (b) thập niên
Truy ức tích kim hồ bất tự
Phong kình kết võng thiết thần tư
20. Hạ quý hải môn phương tuần thị
Long đĩnh phi tường cáp lộ gian
Tiên tất tạm đình Thai Dương chỉ
Giải ngư hà bạng tranh hiến tiền
Đế giám bồi hồi vị vô nhĩ
25. Phi tiềm ngưu chữ đãi hà thanh
Tương nhiếp long môn đồng dược lí
Cự tòng dương ngoại khóa thân lai
Quản tận phong đào thiên vạn lí
Tố du bất tùy Tây thượng ngư
30. Triều tôn đãn hướng Đông lưu thủy
Mỗi hoài thủy thổ bất thăng (thắng) tình!
Cố thác tha nhân khắc (c) quyết phỉ
Gian lao hạnh đắc kiến quân vương
Hoàng tuất thử gian sinh dữ tử
35. Tiến tân thiếu ủy cửu trùng tâm
Tứ dư hạ cập bách khanh sĩ
Thác vật thiên chương cảm khái thâm
Thôi thực quân ân đa thả chỉ
Hòa canh cửu tự quý phi tài
40. Kim ngư duy nguyện lao đắc mĩ
Niệm ngạc đương niên thẩm phục
nhung
Kim lai tưởng dĩ thức hành chỉ
Hoàn trung bằng ngạc báo bách xuyên
44. Giải giáp vô (d) vi bất trạo (1) vĩ.
(a) Phụng châu điểm.
(b) Phụng châu phê: “Thấu hối”.
(c) Phụng châu phê: “Chí khí”.
(d) Phụng châu phê: “Khủng (khúng) hối”.
(1) [điệu].
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
65
KÍNH HỌA THƠ NHÀ VUA LÀM:
“ĂN [THỊT] CÁ SẤU”
1. Chỉ có ngươi, cá sấu! Chừ! Cớ sao lại ngươi?
Nhìn vật khiến người nhớ lại, [việc] cũ khơi dậy
Không có [sự hiện hữu] cá sấu, đâu làm cá sấu buồn
Có [sự hiện hữu] cá sấu, có thể không là nguyên nhân
[giúp] cá sấu vui
5. Đất giữa [cõi trời nước] Nam sản nở, vốn trước đây
[sản vật] phong phú
Cá sấu sinh ra, [cũng] giữa chốn ấy, y như [các giống]
vật mà thôi
Đức lớn (: đạo lí tốt thịnh) trải khắp, đồng đều [của
Đất nước], làm cảm động, ví như [đức lớn của] Trời
Trứng [được] dưỡng nuôi, từng trải qua bao nhiêu
năm, [bao nhiêu] kỉ (1)?
Sự rộng lòng của rùa, rồng đất, chẳng xấu hổ [gì]
cho đời sống [ngươi] vốn có chăng?
10. Há loài rắn lớn cung cấp cho cương giới [đất nước ta]
loài heo sao?! (*a)
Tuy chẳng (a) giảo hoạt, múa may, bởi vực sâu bức
bách [ngươi trong phạm vi]
[Ngươi vẫn bị] các loài tộc khác khiến sai, ép buộc
[: chia ghép] sống ở nơi này
Tính khí ngang tàng [chốn] sông nước [của ngươi]
thiếu sự tuân phục loài người
Miếu điện (2) quay về [tế ở] núi gò, chịu dâng [ngươi
làm vật] tế lễ, thết rượu khách
15. [Hằng] năm sung cống [ngươi], tuy [ngươi] không
[hẳn] là món ngon
Sách chép [các] sản vật, [các] việc làm thích ứng với
đất nước [về địa lí], không thể thiếu [tên ngươi]
(hoặc: tìm tòi ghi chép các sản vật hợp thủy thổ
[cũng có ngươi] là điều không thể bỏ)
Ba mươi năm qua, [ít ra là] (b) hai mươi năm
Truy tìm kí ức, xưa nay giặc giã chẳng
[có bọn nào] tương tự...
Phong tước cho cá voi (3), kết lưới, [nhằm] cắt mối lo
[của] nhà vua
20. Ba tháng mùa hè, cửa biển mới [được]
qua lại xem xét
Chiếc thuyền rồng (4) nhỏ bay vút, bay liệng giữa
đám hàu (: nghêu) [và] cò (*b)
Lối cấm của tiên tạm dừng [ở] đền Thai Dương (5)
Ba ba, cá, tôm, sò tranh hiến lễ vật trước
Hoàng đế xét trông (: chép việc hỏng để răn), [lòng]
quẩn quanh (: bồi hồi), bảo rằng không có ngươi!
25. Không phải [ngươi] ẩn lặn [ở] bến trâu [quấy đục],
chờ nước trong [của] sông
Toan kiêm [cả] Long môn (6) giống như cá chép [đã]
nhảy qua (6)
Há theo [bọn] ngoại dương cỡi thân [ngươi] đến sao!
[Nhà vua] sửa trị tất cả sóng gió vạn ngàn dặm (7)
Ngược sông đi lên không tuỳ thuộc [bọn] Tây trên
[lưng] cá [, cá ấy là ngươi]
30. Triều đình, tôn thất (hoặc: chầu về ngôi cao,) chỉ cầu,
chỉ hướng về [dòng] nước chảy [phía] Đông
Mỗi khi lo nghĩ [về] Đất Nước, khôn xiết tình!
Cho nên vén tay áo cất người khác lên, [để] có thể
đánh (c) gục đầu [những] cái thùng đậy kín (8)
Gian lao may được thấy nhà vua
Thong thả [vẫn] bận lòng (: thương lo) [đất này] giữa
khoảng sống gần kề với chết ấy
35. Tiến dâng lễ vật lên tổ tiên [mà lại] ít an ủi
lòng cửu trùng (9)
[Người trên ban đến mức] thừa thãi ân huệ, [một
cách] nhún nhường, [cho] gần trăm khanh sĩ
[Nhà vua] vén tay cất vật lên (hay: mượn hình tượng
cá sấu), [khiến] bài văn của Trời (10) cảm khái
(: niềm cảm xúc có động lòng thương) sâu sắc
[Vua] giục ăn, ơn vua nhiều, [vua lại] chậm rãi
[ban] vị ngọt
Tài “hòa canh” (: tài nấu canh vừa miệng) (11), lâu
nay [kẻ bề tôi] tự thẹn là không tài
40. Cá vàng, chỉ một ước nguyện mò tay [xuống sông
biển] bắt được cái đẹp [đó]
Nhớ cá sấu, năm gánh vác công việc [ấy], [thần] xử
đoán bọn giặc (12) chịu tội [là sấu]
Nay hồi tưởng [việc] đã qua, nhận thức ra [nên] dùng
[hay nên] ngừng
Trong cõi lớn rộng, cậy vào cá sấu [để giúp chúng] báo
đáp trăm dòng sông
44. [Rồi sẽ] cởi bỏ áo giáp (d), [bọn phỉ là sấu] không làm
gì (theo kiểu “vô vi”) (13),
[chúng] không quay ngoắt đuôi (làm phản) (14).
(1) Kỉ: 12 năm hoặc 100 năm (“thập” kỉ, thế kỉ).
(2) Miếu điện: nơi thờ vua, nơi vua ở, tức là Triều đình.
(3) Người Việt mình có lệ phong thần và thờ cá voi, ở các vùng ven bờ biển. Xem chú thích (5).
(4) Thuyền vua.
(5) Thai Dương là tên xã, thuộc huyện Hương Trà (địa giới thời Tự Đức), Thừa Thiên. Ở đó có Miếu Nam hải Long vương (ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 72 - 73). Xem chú thích (3), bên trên.
(6) Cá chép vượt Vũ môn sẽ thành rồng (theo điển tích cổ): thi đỗ, đạt danh cao, tước lớn (TĐTNTN., sđd., tr. 383).
(7) Dặm: đơn vị đo độ dài đường sá.
(8) Những thùng đựng súng đạn, muối ăn và hàng cấm nói chung, hoặc xe, tàu của Pháp.
(9) Cửu trùng: chín tầng, chín cửa, chín bệ; chỉ hoàng đế.
(10) Chỉ thiên tử, tức nhà vua (trong khuôn khổ ý hệ nho giáo đương thời của tác giả).
(11) Chơi chữ; nghĩa thực (nấu canh vừa miệng), và nghĩa bóng (điều hòa, điều động trong chính trị, kinh tế, văn hóa nội bộ xã hội; an ninh trật tự, chống ngoại xâm trong quân sự...), nhằm bày tỏ sự khiêm tốn. Xem: chú thích (17) bản dịch nghĩa bài số 56; chú thích (4) bản dịch nghĩa bài số 7; và chú thích (3) bản dịch thơ bài số 6.
(12) “Thẩm phục nhung”, có thể dịch: xử đoán quân giặc mai phục; xét cho theo quân.
(13) “Vô vi bất nhi bất vi”: “Vô vi” không phải không làm gì cả, mà thực ra là làm tất cả, ví như khoảng trống không của cái hộp để đựng đồ đạc, có khi, thường là, quan trọng hơn gỗ để làm cái hộp ấy: công dụng của cái “vô”. Xem chú thích (4), bản dịch nghĩa, bài thơ số 34. Tạm hiểu: cho những kẻ trót theo giặc Pháp, nhưng đã biết phục thiện, lập công chuộc tội, được làm các công việc không có thực quyền, hoặc được phép điều trần như Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871)...
(14) Chính hai chữ cuối: “trạo vĩ”, với hình ảnh cái đuôi cá sấu quay ngoắt – toan làm phản (nghĩa bóng, TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 477), đã làm sáng tỏ hình tượng “ngạc ngư”: ngụy tặc... Nhưng trước hai chữ “trạo vĩ” ấy, đã có chữ “bất” (không), “vô vi”, “giải giáp”, “báo bách xuyên” và đặc biệt là “bằng ngạc” (căn cứ vào [việc đền đáp trăm sông của] sấu; cậy sấu – một cách nói nhã ngữ – [để giúp sấu chuộc tội bằng cách lập công]). Rõ ràng đây là một bài thơ mượn hình tượng vật để nói về bọn ngụy, tả đạo ở Bắc Kì trước đó đã theo giặc Pháp, vào năm 1873, khi Françis Garnier và giám mục Puginier tuyển mộ. Trong số ấy, có những tên đã được giặc Pháp cất nhắc lên làm tổng đốc, án sát như tên thợ rèn tổng đốc Trương chẳng hạn!
Trước tình hình đó, đành phải mềm dẻo với bọn này, ở cấp thấp. Và chính vua Tự Đức cũng hiểu rằng, Nguyễn Văn Tường đã “xin hãy để lại, đợi để sai phái, cho yên lòng phản trắc” của bọn chúng (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 83). Quả thật, bọn chúng “bèn đến xin thú, hết sức làm việc” (sđd., tr. 84). Đến lúc tình hình ở Bắc Kì trở lại ổn định, Trần Đình Túc, Cơ mật viện dâng tập tâu, làm phiếu nghĩ định cho bọn ngụy, tả đạo ấy (có tên là hào phú, lắm đồ đệ; có tên đã đỗ tú tài) được “chiểu hàm thất phẩm cấp lương, theo quân tỉnh, phái đi đánh giặc” (tập 33, sđd., tr. 84). Nhưng vua Tự Đức lại đổi ý kiến, không đồng ý, và lệnh cho Nguyễn Uy “sai phái, đợi có công trạng thực, do Nguyễn Uy xét tâu lục dụng, mới cho. Nguyễn Uy cũng phải khéo kiềm chế vỗ về, xét có tình tiết phản nghịch thì trừ bỏ trước khi việc xảy ra, có lẽ mới là ổn thỏa cả”; Trần Đình Túc và Nguyễn Uy tuân lệnh (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 85; xem thêm sđd., tr. 9 - 10; tập 32, sđd., tr. 363).
Đấy là cơ sở hiện thực lịch sử của bài thơ này, 12.1873 - 8.1874, trong đó có nguyên tắc và nghệ thuật dùng người.
(a) “Kính [nhận] nét điểm bút son [của nhà vua]”.
(b) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Quá tối [nghĩa]””.
(c) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Chí khí (rất khí khái)””.
(d) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Tối [nghĩa] kinh khủng”, “sợ [rằng] tối [nghĩa]”” (*c).
65
“ĂN THỊT CÁ SẤU”
Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức
1. Chỉ ngươi, sấu! Hề! Sao lại ngươi?
Nhìn vật, xui người kí ức khơi
Không sấu, vốn đâu làm buồn sấu
Nào vì hiện hữu sấu vui tươi!
5. Trong cõi nước Nam, sản vật lắm
Sấu sinh, thế đó, một loài thôi
Đức Tổ Quốc trải – động lòng Trời
Trứng nuôi từng qua mấy niên kỉ?
Tâm rùa, rồng giúp... xấu chi nhỉ?
10. Rắn lớn há đẻ heo xứ này?
Tuy chẳng (a) múa may, vực bó hẹp
Loài khác buộc ngươi sống nơi đây
Sông hồ ngang tàng thiếu phục phép
Triều đình tế đàn, lễ là ngươi
15. Thường năm sung cống
(chưa ngon nhất!)
Chép vật, tục đất, thiếu sao thôi!
Ba chục năm qua, hai (b) chục năm...
Truy nhớ, giặc xưa đâu tương tự!
Ngăn kình, kết lưới, cắt lo thầm
20. Mùa hè, cửa biển, tuần xét đủ
Thuyền giữa trai cò: rồng bay vươn (*d)
Lối tiên tạm dừng đền Thai Dương
Ba ba, cá, tôm tranh hiến trước
Xét răn: vắng ngươi! Vua bảo buồn
25. Không lặn bến trâu, chờ sông trong
Cùng kiêm cửa rồng, như chép nhảy
Ngươi theo, bọn ngoại cỡi thân sao!
Vua trị cả sóng vạn dặm ấy
Ngược nguồn không tùy Tây trên ngươi
30. Triều, tôn một hướng nước Đông chảy
Khi nghĩ đất nước, khôn xiết tình!
Mượn người cố đánh (c) gục “thùng” đậy
Gian lao may được thấy nhà vua
Đất này, ngẫm thương giữa chết sống
35. Dâng lễ, thiếu yên lòng cửu trùng
Thừa ơn, cúi tặng trăm lương đống
Mượn vật, văn trời cảm khái sâu
Giục ăn, vua ban, lại ngọt thết
“Hòa canh” vốn thẹn, tài nào đâu
40. Cá vàng, chỉ ước vớt cái đẹp!
Nhớ sấu... Năm xưa, xét sấu hàng
Tưởng lại, hiểu dùng hay ngừng hẳn
Trong cõi, giúp sấu đáp trăm sông
44. Cởi giáp, vô (d) vi, hết ngoắt phản.
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(a), (b), (c), (d) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.
Cước chú của bài thơ số 65, thuộc phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):
(*a) Trường xà phong thỉ: [nghĩa đen là] rắn dài heo to.
(*b) Cáp, lộ: Cáp Châu (Hạp Châu) và Lộ Châu, hai điạ danh, cũng là hai đồn phòng thủ mặt biển ở cửa biển Thuận An (Huế).
(*c) Xin lưu ý: “Thấu hối” còn có nghĩa là “thấu suốt [sự] tăm tối”; “khủng hối” còn được hiểu là “kinh khủng (sợ hãi)! tăm tối!”. Chúng tôi nhận thấy những dòng thơ của Nguyễn Văn Tường được châu phê này không có gì khó hiểu (tối nghĩa) cả. Hẳn là vua Tự Đức lo sợ sự phản trắc (“trạo vĩ”) của các quan ở những tỉnh thành quan yếu, như tên thợ rèn tổng đốc Trương, Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thân? Căn cứ vào nội dung, vào vị trí số 65 của bài thơ, chúng tôi đoán năm sáng tác hẳn là trước 1877 hoặc 1878. “Ba mươi năm đã qua”, ứng vào giai đoạn 1847 - 1877. 1847 là năm hai chiến hạm Pháp, Victorieuse và Gloire, pháo kích vào Đà Nẵng. Pháp thực sự tấn công xâm lược nước ta năm 1858, ứng với “hai mươi năm...”. (Xem NĐNĐDVPVTH., sđd., tr. 98 - 99, tr. 69 - 71). Hoặc có thể Tự Đức dùng chữ “khủng” với âm “khúng” (lo sợ ý ở ngoài lời sẽ xảy ra), [HVTĐ., sđd., tr. 202].
(*d) Cáp, Lộ, thuyền len: rồng bay vươn.
Bài 66
HẠ TRẦN TRỌNG CUNG
THẤT THẬP THỌ
Thủy hữu Tam Hà động (đỗng) hữu
“chiềng” (1)
Địa Linh chung phúc phỉ kim nhiên
Đới cừu (cầu) tọa trấn ưu vi lão
Bàn thác phân đầu động tắc viên
Hổ bái phi đan phùng khánh điển
Long biên lưu tuyết tá kì niên
Gian nan hồi ức tương tùy nhật
Bán tại giang hồ bán nhật biên.
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
(1) Xin xem chú thích (3), bản dịch nghĩa bài này.
66
MỪNG TRẦN TRỌNG CUNG (1)
THỌ BẢY MƯƠI [TUỔI]
Nước [nguồn quê hương] có Tam Hà (2), bản, xóm (của
người đồng bào thiểu số) có chiềng (3)
Địa Linh (4) (sự thiêng liêng của đất) un đúc nên phước
lành, đâu phải [khi không] ngày nay [mới được] vậy
Đai áo, áo cừu (5), ngồi gìn giữ (nơi trấn nhậm cho
dân); [việc] tốt đẹp nhờ cứng bền
Cái bàn, viên đá mài (6), rối bời [mà] hợp [nhau] (trong
công việc của nước); [sự] hoạt động tất nhiên trọn vẹn
Hổ (7) trao chức, khoác [áo] điều, gặp điển lễ lớn
Rồng ghi chép (8), lưu lại tuyết [trắng], vay [lại] tuổi
sáu mươi (9)
Gian khó, nhớ lại ngày theo [cạnh] nhau [để làm
việc nước]
[Cảm thấy tâm hồn] một nửa ở nơi ao hồ sông nước,
một nửa ở cạnh mặt trời.
(1) Trần Đình Túc (1808 - 1892), ĐNLT., sđd., tập 4, tr. 235 - 238.
(2) Sông Hiền Lương; đoạn cuối sông Thạch Hãn; và sông Hiếu (Do Linh, Quảng Trị; xem bản đồ). Tam Hà còn là điạ danh ở Quảng Trị thời Nguyễn bấy giờ (tên huyện lị) [xem ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 174).
(3) Tác giả phiên âm chữ “chiềng” (một từ tiếng Việt cổ)? “Chiềng”, theo nghĩa từ điển, là từ để gọi người bậc trên; là bản, mường lớn; hoặc là trung tâm của một khu vực. Ở đây, theo nghĩa thứ ba, trung tâm của các bản, làng nhân tộc thiểu số thuộc huyện Địa Linh (nay là Do Linh), Quảng Trị. [Xem ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 101; Pierre Pigneaux de Béhaine, Tự vị Annam – Latinh (1772 – 1773), sđd., tr. 77; và Viện Ngôn ngữ, Từ điển tiếng Việt, sđd., tr. 152 - 153 và tr. 334]. Về chữ “chiềng”, tác giả đã có một lần sử dụng ở bài “Cùng thống đốc Hoàng lên đài cột cờ, cảm xúc” (bài 30 trong sách này).
(4) Địa Linh, xem chú thích (3) ở trên.
(5) Đai áo, áo da (cừu): biểu trưng cho lúc còn làm quan với sắc phục quy định; đây chỉ là chi tiết hoán dụ. Xin xem thêm chú thích (8) của bản dịch nghĩa bài thơ số 11.
(6) Cái bàn, viên đá mài: chi tiết biểu trưng cho thời cầm gươm tiễu phỉ, đánh thực dân Pháp (bàn mưu tính kế ở cái bàn, mài gươm ở đá mài). HVTĐ., sđd., tr. 707, định nghĩa chữ “thác”: Kinh Thi có câu: “tha sơn chi thạch, khả dĩ vi thác” (đá ở núi khác, có thể lấy làm đá mài). Ý nói: bè bạn hay khuyên ngăn để cứu lỗi lầm cho mình. Xin xem thêm chú thích (8) của bản dịch nghĩa bài thơ số 11.
(7) Hổ, chỉ tướng cầm quân.
(8) Rồng, chỉ vua. Vua Tự Đức thường làm thơ, trong đó có nhiều bài kí sự bằng thơ. Long Biên cũng là địa danh.
(9) Già rồi, Trần Đình Túc vẫn phải nhận chức của Triều đình, như ở những năm 1873, 1874. Ở đây tác giả nhắc đến thời 1874 (với địa danh Long Biên, Hà Nội). Nguyễn Văn Tường viết bài thơ này, chắc chắn là vào cuối năm 1877 hoặc trong năm 1878, dịp mừng thọ bảy mươi tuổi của Trần Đình Túc. Năm 1874, Trần Đình Túc đang ở tuổi sáu mươi, chính xác là 66 tuổi.
66
MỪNG TRẦN ĐÌNH TÚC
THỌ BẢY MƯƠI TUỔI
Nước chảy Tam Hà, bản có chiềng
Đất linh đúc phúc, nên phần riêng
Áo, đai, ngồi giữ, bền nhờ vững
Bàn, đá, hợp tranh, động hẳn yên
Hổ tặng, khoác điều, gặp lễ lớn
Rồng ghi, lưu tuyết, mượn thời quyền!
Gian nan, nhớ thuở theo nhau bước
Nửa tại sông hồ, nửa ánh thiên.
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
Xem tiếp:
http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/tho_nvt-vnvcnthvttuong_16.htm
Cũng có thể xem tại:
http://www.tranxuanan-writer-5.blogspot.com
http://www.tranxuanan-writer-6.blogspot.com
Trở về trang
danh mục tác phẩm -- muc lục:
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danhmtphamtxa_googlepcreator.htm
bài mới -- sách mới -- tin tức mới:
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/baimoi-sachmoi-2
______________________________________________________________________________________________________________
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home
Google page creator / host
GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ... / HOST, SEARCH & CACHE