s.a. Bàn luận cuối bài 19-Tl.3 - "Về 'Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh'"

NHỮNG LỜI BÀN LUẬN

CUỐI BÀI “VỀ HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH”

TRÊN WEB TXAWRITER WORDPRESS

 

1.                  

December 10, 2008 at 3:38 pm

December 10, 2008 at 9:15 am e

“Mình đọc HK NDM từ mấy tháng trước. Cuốn sách ấy là có thật, mình có hỏi Chu Văn Sơn, học trò ruột của thầy Mạnh”.

(Nhà giáo Ng. Thủ Lễ, Huế — 22:24 ngày 03 tháng 12 năm 2008 )

————————————————-

Cập nhật ( 10-12 HB8 ): Bài đã được gửi đăng trên Tạp chí điện tử Chim Việt Cành Nam (vì một số tạp chí in giấy, điện tử ở trong nước không đăng [hoặc chưa đăng?]):

http://chimviet.free.fr/33/txan052.htm

(có một chữ “cong” trong cụm từ “uốn cong ngòi bút”, tôi vô ý gõ phím thiếu 1 kí tự)

Thành thật cảm ơn ông chủ biên Lại Như Bằng.

( WebTgTXA. — 10-12 HB8 )

2.                  

December 12, 2008 at 3:05 pm

Kính gửi người phụ trách WebTgTXA.,

Theo BBCVietnamese, nhà văn Dương Thu Hương vừa họp báo tại Pháp để công bố cuốn tiểu thuyết mới xuất bản: ĐỈNH CAO CHÓI LỌI. Cũng theo nguồn tin đó, trong tiểu thuyết ấy có chi tiết về nhân vật Hà Thị Xuân liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, như trong các cuốn sách của Vũ Thư Hiên, Lữ Phương, Nguyễn Đăng Mạnh… Ông thử lướt mạng để xem nó như thế nào.

Chào ông,

NXT. (USA.)

WebTgTXA. xin trả lời: Mời ông (bà) bấm vào link dưới đây:

Xem: Trần Xuân An — “Mùa hè bên sông”, chương 14 (>>>>> [tìm trên trang này]: Bác Hồ)

Ông (bà) dã có lòng thông báo, dù tin vui hay tin không vui, WebTgTXA. cũng xin trân trọng cảm ơn.

WebTgTXA.

3.                  

December 13, 2008 at 2:49 pm

THAM KHẢO:

Cập nhật ( 13-12 HB8 ): Tư liệu - Đính chính sử liệu: Phạm Hồng Tung, “‘Hồ Chí Minh và cuộc chiến tranh ở Việt Nam’ trong hồi tưởng của Khrushchev (Krushchev)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 9+10-2008:

Bấm vào những link-hóa dưới đây:

Trang ảnh bìa sách |

Trang 1 |

Trang 2 |

Trang 3 |

Trang 4 |

Trang 5 |

Trang 6 |

Trang 7 |

Trang 8

 

Nhớ bấm vào nút có biểu tượng kính lúp ở góc phải phía trên để phóng lớn, rồi dùng con trỏ “chuột” máy tính để kéo và đẩy hình trang tạp chí đã được quét chụp.

WebTgTXA.

4.                  

December 15, 2008 at 10:10 am

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỚC HẾT PHẢI NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT, GHI CHÉP ĐÚNG SỰ THẬT ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU MỘT CÁCH TOÀN DIỆN, KHÔNG ĐƯỢC “XẤU CHE, TỐT KHOE”

Nhìn thẳng vào sự thật lịch sử chính trị, sự thật văn học sử, sự thật về văn nghệ sĩ, kể cả văn nghệ sĩ hiện đang còn sống và sáng tác, là tiền đề cơ bản của nghiên cứu khoa học về sử, vănhọa. Nếu chỉ nói trong phạm vi các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, và nếu chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu tác phẩm của họ không thôi, thì đã là việc thường thấy, không có gì lạ. Nhưng nghiên cứu toàn diện (nhà văn – tác phẩm, họa sĩ – tác phẩm), cũng không phải là mới. Văn học sử xưa nay đều xác định đối tượng nghiên cứu là như thế: tiểu sử tác giả (thân thế, con người…) - tác phẩm (tư tưởng, hình tượng nghệ thuật, thủ pháp thể hiện…). Nói theo GS. Nguyễn Đăng Mạnh: đối tượng nghiên cứu của ông là “nhà văn, tư tưởng và phong cách”. Vì thế, khảo sát một nhà văn, một nhà thơ (giới họa sĩ, ông chỉ đề cập đến một người vốn là bạn của ông), Nguyễn Đăng Mạnh đã thực hiện ghi chép một cách toàn diện con người ấy (phần “con”= hạ ngã = le ça, cũng như phần “người” = siêu ngã = le sur-moi, để tìm thấy con người = bản ngã = le moi [*]). Tôi cho rằng như thế là khoa học. Và đồng thời, tôi cũng phân vân: Thực sự các nhà thơ, nhà văn được (bị) GS. Nguyễn Đăng Mạnh đề cập đến có tệ hại như vậy hay không. Cũng có thể mỗi văn nghệ sĩ đều có một mặt tệ hại như thế thật, ấy là một phân số trong toàn bộ (toàn diện) con người thực chất của từng văn nghệ sĩ. Đó là mặt không có gì lạ (vì không trầm trọng lắm; quá lắm là có người vào nhà thổ, chơi gái ăn sương hay nghiêm trọng nhất là xúc xiểm, ‘đâm bị thóc, thọc bị gạo’). Họ như mọi người ở mọi ngành nghề, khu vực, miền đàng, đất nước, từ xưa đến nay.

Tôi chưa bàn sâu đến mối tương tác biện chứng giữa lí tưởng thẩm mĩ, đạo đức (mĩ & thiện) cũng như trình độ nhận thức, học vấn, vốn sống (chân) trong tương quan với tác phẩm giấy trắng mực đen, với xã hội (người đọc), đặc biệt là mối quan hệ tương tác giữa 2 mặt đối lập là “con” (phần tệ hại trong đời thật văn nghệ sĩ) và “người” (lí tưởng thẩm mĩ, đạo đức) trong lạo động sáng tạo để hình thành tác phẩm; và quá trình tương tác ấy giúp họ nâng cao tâm hồn, nhân cách trong đời thật của họ. So sánh cụ thể: Một nhà giáo, vì chức năng, sứ mệnh nghề nghiệp (mô phạm), vì áp lực xã hội, vốn rất cần thiết (từ phụ huynh, học sinh, đồng nghiệp, láng giềng), họ phải sống tốt hơn so với con người bản năng của họ. Nếu cũng người ấy, làm nghề khác, anh ta sẽ sống tệ hơn. Văn nghệ sĩ chân chính cũng vậy, tuy văn nghệ sĩ có quyền thâm nhập thực tế trong giới hạn cho phép. Còn loại văn nghệ sĩ dâm ô đồi trụy, chủ trương viết một cách dâm ô đồi trụy, đồng tình, đồng lõa với dâm ô đồi trụy (cái tâm thấp thua hiện thực – bản năng con người và xã hội), thì ngược lại, họ càng dâm ô đồi trụy trong đời thực.

Điều này tôi đã nói chuyện với TS. Trần Hoàng (Trần Hoàng Trần), trong buổi sáng đi dùng điểm tâm, cà phê với anh cách đây hơn một tuần.

Một điểm nữa cần được lưu ý: Tôi hoàn toàn bác bỏ các thông tin về đời tư nhà thơ Hồ Chí Minh (vụ Hà Thị Xuân…) trong “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh”, cũng như trong các trang viết của Vũ Thư Hiên, Lữ Phương, và gần đây, trong tiểu thuyết “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương… [**]

Hôm qua, tôi cũng chuyện trò với các bạn từ thời sinh viên của tôi, nhà giáo Ngô Thủ Lễ và nhà giáo - tác giả Nguyễn Chiến, về việc này.

Tôi chứng minh và khẳng định: Tuyệt đại đa số chúng sanh chúng ta đều có hạnh phúc lẫn khổ đau vì bộ phận sinh dục bình thường. Nhà thơ Hồ Chí Minh không có hạnh phúc lẫn khổ đau về đời sống vợ chồng, vì bộ phận sinh dục của ông không thực hiện được chức năng của nó. Nói cho đúng, riêng về điểm này, nhà thơ Hồ Chí Minh không khổ đau, không hạnh phúc vì nhu cầu sinh dục, mà chỉ khổ đau vì bộ phận sinh dục bất thường và chỉ hạnh phúc nhờ được thanh thản (không bị nhu cầu sinh dục quấy rầy). Đó là do đột biến gène thể chất ở Hồ Chí Minh cũng như ở 2 người — anh và chị — của ông: ông Nguyễn Sinh Khiêm, bà Nguyễn Thị Thanh. Ba anh chị em đều không vợ, không chồng. Tôi nói gène thể chất, tôi không nói đến tính cách, thói quen, “phần nhiều do giáo dục mà nên”, do môi trường, xã hội mà tập nhiễm, hình thành).

Nhà thơ Hồ Chí Minh là một con người tự bẩm sinh có bộ phận sinh dục không thực hiện được chức năng. Đó là một loại dạng thể chất cá biệt nhưng cũng không có gì lạ. Tôi không thần thánh hóa.

Chúng tôi đã đưa ra, trao đổi nhiều chứng lí, nhưng không nêu ra ở đây một cách dài dòng, chỉ đề nghị lưu ý 3 điểm:

1) Lí giải như thế nào về ông Khiêm, bà Thanh không vợ, không chồng? Hai người này đâu phải là linh hồn của cuộc kháng chiến! Riêng về chủ tịch Hồ Chí Minh, xét trong 4.000 năm lịch sử, không lãnh tụ kháng chiến nào không vợ, nên cũng không nhất thiết phải tạo ra một tấm gương như thế. Điều cần thiết là lãnh tụ có vợ một cách bình thường nhưng vẫn mẫu mực.

2) Miền Bắc và có thể cả nước lẽ nào không có một người xứng đôi vừa lứa với Hồ Chí Minh?! Ở các nhà chính trị, yêu khác với lấy vợ, thậm chí yêu khác với giải quyết nhu cầu sinh dục. Hồ Chí Minh, một người đầy nghị lực, có thể lấy một người phụ nữ để thỏa hai yêu cầu - điều kiện trên (lấy vợ một cách bình thường, giải quyết nhu cầu sinh dục), nhưng có thể quên đi tình yêu.

3) Xin đưa ra một ví dụ tiêu biểu: Nếu ai có về Huế, xin ghé vào tiệm Bánh khoái Thượng Tứ tuyệt ngon, sẽ thấy có một gia đình có đến 3 chị em gái bị câm điếc, khá xinh đẹp, chỉ 1 cậu con trai là không câm điếc. Như vậy, tỉ lệ là 75%. Nhưng theo nhiều tài liệu y học, tỉ lệ này có đến 100% (có nhiều nhà, 4/4 đều câm điếc).

Về cuốn hồi kí Nguyễn Đăng Mạnh, tôi thấy cần chốt lại 3 ý kiến như sau:

Một là, bác bỏ những dòng ghi chép về vụ Hà Thị Xuân – Hồ Chí Minh – Trần Quốc Hoàn – Tạ Quang Chiến….

Hai là, những ghi chép về các văn nghệ sĩ (Xuân Diệu, Hoàng Cầm, Hoài Thanh, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Hoàng Ngọc Hiến, Dương Thu Hương, Lưu Công Nhân, Hữu Thỉnh, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Đăng Khoa …) đã thật sự xác thực hay chưa.

Ba là, trên cơ sở phản hồi, xác minh, hoàn chỉnh ghi-chép-nghiên-cứu về nhóm văn nghệ sĩ ấy, chúng ta có thể xem đó là tư liệu văn học đúng nghĩa với tinh thần nghiên cứu khoa học: Nhìn thẳng vào sự thật, thực chất, toàn diện đối tượng nghiên cứu (con người nhà văn, tư tưởng và phong cách).

Một điều cuối bài này: Sách nghiên cứu khác với sách giáo khoa trong nhà trường phổ thông (học sinh không nên tiếp xúc với phần tệ hại quá nhiều, khi chưa đủ bản lĩnh). Ngay trong sách nghiên cứu, người viết cũng cần phê và tự phê, chứ không thể đồng tình, đồng lõa, đánh đồng như nhau (‘cá mòi một lứa’) trước những khuyết, nhược điểm về nhân cách, đạo đức của nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ (học giả, văn nghệ sĩ nói chung; con người nói chung).

Tôi nhấn mạnh một ý chưa bàn sâu ở bài này: Người tiếp xúc thường xuyên với chân thiện mĩ, sáng tạo nên những hình tượng chân thiện mĩ, đã, đang và sẽ tự nâng cao tâm hồn, thanh tẩy, ngày mỗi thật - tốt - đẹp hơn. Cũng phải coi chừng khả năng sa ngã.

Ngoài ra, còn những hạn chế trong cuốn hồi kí Nguyễn Đăng Mạnh, tôi không đề cập đến, vì nhiều người đã phản hồi khá kĩ.

Trần Xuân An

Viết tại TP.HCM., 8 : đến 9 : 42, ngày 15-12 HB8 (2008).

__________________

[*] Các khái niệm này không đơn thuần theo Freud. Freud quá cực đoan, chỉ xoáy sâu vào OEdipus complex.

[**] Chú thích thêm vào ngày 17-12 HB8: Ngoại trừ GS. Nguyễn Đăng Mạnh (tôi nghĩ là ông chỉ “tung quả bóng thăm dò dư luận”), còn Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Lữ Phương, Dương Thu Hương… thì đúng là những tác giả sa-đích (sadique, sadisme), ít ra là trong các trang viết có đề cập đến “Hà Thị Xuân”…

5.                  

December 15, 2008 at 2:54 pm

Vào 13:17 Ngày 15 tháng 12 năm 2008, Lê Tiến Công

letiencong2002@gmail.com đã viết:

Cám ơn anh An đã gửi những thông tin ấy cho em.

Việc hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh em đã đọc từ lâu, nghe thông tin xung quanh cũng nhiều.

Nói chung cái hay và cái không hay, cả hai đều nằm trong đó.

Không phải chuyên môn của em nên em không trao đổi, nhưng vừa đi Hà Nội về, thấy giới văn nghệ sĩ chửi như chửi … loài vật gì tệ hại nhất. Họ bảo ông Mạnh viết về ông ấy quá tốt còn các ông khác đều xấu.

Lê Tiến Công.

____________________

Cảm ơn thạc sĩ Lê Tiến Công đã có ý kiến.

WebTgTXA.

6.                  

December 15, 2008 at 9:26 pm

WebTgTXA. trả lời:

Kính trả lời ông Lê Văn Trà ( levantra200@yahoo.com ) và một độc giả khác:

Tôi không tán thành một số cây bút bị báo chí trong nước phê phán rất đúng (như Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Lữ Phương, Dương Thu Hương…) và cả GS. Nguyễn Đăng Mạnh (mặc dù tôi nghĩ ông chỉ “tung quả bóng thăm dò”), về những trang viết có đề cập đến vụ đơm đặt Hà Thị Xuân liên quan với cố chủ tịch Hồ Chí Minh, nên tôi mới viết những dòng trên, kể cả những đoạn trong chương 14, tiểu thuyết “Mùa hè bên sông” (1997 & 2003). Tôi không có ý định làm mất uy tín Bác Hồ, cũng không nhằm mục đích thần thánh hóa Người, mà chỉ làm sáng tỏ: Hồ Chí Minh là một hiền nhân bẩm sinh, vì khả năng bẩm sinh không thể liên quan đến vấn đề tình dục.

Khi phát động học tập theo gương Bác Hồ, không ai bảo phải học tập việc không lấy vợ (không lập gia đình riêng). Chính Hồ Chí Minh cũng cho đó là khuyết điểm của Người.

Trân trọng,

WebTgTXA.

21:26, 15-14 HB8 ( 2008 )

7.                  

December 17, 2008 at 10:54 am

GS. NGUYỄN ĐĂNG MẠNH LÀ MỘT NHÀ CẦM BÚT DŨNG CẢM, MẶC DÙ CÓ THỂ ÔNG CHỈ “TUNG QUẢ BÓNG THĂM DÒ DƯ LUẬN” , TRƯỚC KHI CHỈNH SỬA LẠI HỒI KÍ

Cho đến giờ phút này, WebTgTXA. vẫn nghĩ như thế về GS. Nguyễn Đăng Mạnh. Và cũng đến khi gõ phím những dòng này, WebTgTXA. rất mong được đọc trên báo chí chính thống những trang viết phản hồi, xác minh của những nhà văn, nhà thơ, họa sĩ và các nhà chính trị, các cán bộ chức cao quyền to có liên can trong hồi kí, hoặc thân nhân của họ.

Riêng WebTgTXA., quả thật, không dám “cả gan đụng chạm” đến những nhân vật, những thế lực còn sống, hiện hành như vậy, lí do chính là bản tính tôi không thích như thế, và một lí do phụ khác, là bởi không có thế lực hậu thuẫn trong nước hay ngoài nước. Vả lại, tôi đã quá mệt mỏi, nhừ “đòn bẩn” của những tên nặc danh cùng dăm người hữu danh hạ cấp, sau khi tôi thực sự đi vào giảng dạy văn học ở trường phổ thông trung học, rồi nghiên cứu sử học nửa cuối thế kỉ XIX, lại nghĩ ngợi, khảo luận ít nhiều về lịch sử cổ đại, viết lách đôi điều về lịch sử hiện đại nước ta. Nói chung, chủ yếu tôi vẫn chỉ dám nghiên cứu về những sự kiện và những nhân vật lịch sử đã xưa xa, khuất bóng. Chỉ thế cũng đã quá khổ, ốm nhừ “đòn bẩn”, hạ cấp ( xem Wikipedia )!

Cũng cần phải nói rõ hơn, trường hợp của tôi khác với trường hợp của GS. Nguyễn Đăng Mạnh: Chủ yếu tôi chỉ mạnh dạn phê phán Thiên Chúa giáo, Đàng Ngoài nửa sau thế kỉ XIX (các thực thể được xem như đã thuộc về quá khứ hay thuộc về giai đoạn quá khứ của chúng) và phê phán các nhà viết sử một cách sa-đích (sadique, sadisme) về giai đoạn ấy… Nói cụ thể hơn, mặc dù buộc lòng phải phê phán các nhà viết sử kiểu ấy (phần lớn đã chết), tôi cũng chỉ đề cập trên phương diện văn bản học thuật và đôi nét về hành trạng chính trị - xã hội của họ mà thôi.

Do đó, đối với văn học, nhất là văn học hiện đại, nhất là hiện thời, WebTgTXA. chỉ phê bình thơ (“Ngẫu hứng đọc thơ”), khảo luận (vài đề tài khác, cũng mới viết về Sơn Nam) và chỉ như thế. Trong chiều hướng tương lai, nếu có viết thêm về các mảng này, cũng chỉ theo trường phái nghiên cứu chủ yếu trên văn bản đã xuất bản với hình thức in giấy hay sách điện tử đã cố định (sách điện tử phải có bản vi tính gốc của chính tác giả để đối chiếu). Đặt ra đối tượng nghiên cứu là con người nhà văn (chính xác hơn là nhà văn chương, bao gồm nhà thơ, nhà lí luận – phê bình văn học) cùng lao động nhà văn chương hiện đại – hiện thời, như GS. Nguyễn Đăng Mạnh, thì chỉ chuốc khốn khổ vào thân. Sợ lắm. Sợ lắm.

Thế mới biết, ở nước ta, nhà văn chương có chức sắc, chức quyền (chính trị, tôn giáo) hay chỉ là nhà văn chương phó thường dân đều không chấp nhận khoa học, không có tinh thần khoa học, đối với trường phái xác lập đối tượng nghiên cứu là con người nhà văn, gồm cả đối tượng nghiên cứu là loại hình lao động văn nghệ - học thuật hiện đại - hiện thời, chỉ muốn và chỉ thích loại khoa học ấy ở dạng nửa vời với “một nửa sự thật” [*]

Bắt chước người xưa, đành buông ra lời cảm thán: Buồn thay!

Vâng, buồn thay!

… Tuy vậy, đây là lời kiên quyết của tôi: KHÔNG BAO GIỜ DÁM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VỀ CON NGƯỜI NHÀ VĂN CHƯƠNG, VỀ LAO ĐỘNG VĂN NGHỆ — HỌC THUẬT, HIỆN ĐẠI - HIỆN THỜI.

Xin yên tâm.

Thật ra, nghiên cứu con người nhà văn chương cùng lao động cầm bút của họ là một trường phái nghiên cứu rất cần thiết, ngoài việc bổ trợ cho các trường phái nghiên cứu khác, như nghiên cứu chủ yếu trên văn bản chẳng hạn, còn giúp cho nhà văn chương được chứng thực về quyền sở hữu trí tuệ đích thực, trong giai đoạn hiện nay. Chắc chắn với tác dụng tích cực về khía cạnh bản quyền này, nhà văn chương nào cũng muốn, trong đó có tôi.

Trần Xuân An (WebTgTXA.)

10:44, 17-15 HB8

(Bài này đã được TXA. sửa chữa vào lúc 8 - 9:45′ & 14:22′, sáng ngày 19-12 HB8 )

___________________

[*] Chú thích thêm vào ngày 18-12 HB8 (2008): Tôi chỉ nói đến lượng thông tin trong “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh”. Về sắc thái biểu cảm của câu chữ trong hồi kí ấy, có nhiều người đã phê phán (”tiểu khí…”). Sắc thái tiểu khí ấy cũng đã khiến cho giá trị khách quan, khoa học của những lượng thông tin bị giảm sút. Nhưng GS. Nguyễn Đăng Mạnh đã lên tiếng trên một đài phát thanh ngoại quốc là ông chưa công bố; bản “bị” lưu hành trên mạng là ngoài ý muốn của ông! (Có thể đó là một cách nói khi “tung bóng thăm dò”?). Do đó, cuối cùng, phải chờ bản công bố chính thức sau khi cắt bỏ, bổ sung, sửa chữa của GS. Nguyễn Đăng Mạnh, mới có thể có cơ sở chính đáng để nhận định…

Chú thích thêm vào ngày 19-12 HB8 (2008): Xin nhấn mạnh một lần nữa: Đối với những trang ghi-chép-nghiên-cứu về các nhà văn chương (và một họa sĩ) của cá nhân GS. Nguyễn Đăng Mạnh, chúng chỉ thực sự có giá trị tư liệu một khi đã được công bố tạm thời, và bản thân ông hay các tòa soạn đón nhận các phản hồi, xác minh, tự phản tỉnh của chính những người được đề cập đến hoặc thân nhân, bạn bè (đối với người quá cố), để rồi được tự tay ông chỉnh lí (cắt bỏ, bổ sung, sửa chữa). Bằng không, chúng sẽ trở thành một loại văn bản gây nhiễu, nguy hiểm, ngụy khoa học. Thiết tưởng cũng cần phân loại rõ hơn: Những ghi-chép-nghiên-cứu của cá nhân về người quá cố đã lâu hoặc loại văn bản như vậy được cá nhân ghi chép khi người được đề cập còn sống nhưng công bố sau khi người ấy chết, cho dù có phản hồi của thân nhân, bạn bè đương sự, vẫn không có nhiều giá trị lắm, thực chất vẫn đáng ngờ.

8.                  

December 19, 2008 at 8:16 pm

THƯỞNG NGOẠN, HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU VĂN CHƯƠNG LÀ ĐỂ CÙNG NHÀ CẦM BÚT CHÂN CHÍNH VƯƠN TỚI CHÂN THIỆN MĨ VÀ CÙNG NHẮC NHAU LUÔN LUÔN NUÔI DƯỠNG KHÁT VỌNG VƯƠN TỚI ẤY.

TRONG CHIỀU HƯỚNG ĐÓ, MỌI NGƯỜI ĐỀU CÓ THỂ MỖI NGÀY MỘT TIẾN GẦN ĐẾN CHÂN THIỆN MĨ HƠN.

BẢN THÂN NHÀ CẦM BÚT KHÔNG PHẢI LÀ HIỆN THÂN CỦA CHÂN THIỆN MĨ.

Trần Xuân An, 19-12 HB8

9.                  

December 21, 2008 at 3:53 pm

THƯ MỘT NGƯỜI ĐỌC:

Kính gửi: WebTgTXA.,

Trong “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh”, có những chi tiết về các nhà văn, nhà thơ thuộc loại rất đáng sợ, nhiều người đã chỉ ra trên báo chí có giấy phép của Nhà nước (xem: Điểm mạng Nhà văn Trần Thanh Giao đăng lại). Riêng chi tiết này về Nguyên Hồng cũng rất kinh khủng:

“Trò chuyện với Nguyên Hồng, tôi mới biết ông bị tù từ tuổi thiếu niên.

Ông có một người chú dượng thường ức hiếp, hành hạ vợ, tức là một bà cô của ông. Ông tức quá, rút dao đâm ông này và bị đưa đi trại cải tạo trẻ con hư (đâu như ở Bắc Giang)”

(Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, bản PDF, chương về Nguyên Hồng, tr. 217).

Trong những trường hợp cần thiết phải bảo vệ người thân, thì có chính quyền (cho dù dưới thời thực dân, phong kiến) hoặc láng giềng, chứ ai lại rút dao đâm người đến nỗi bị tù. Như vậy, Nguyên Hồng có phải từ thuở bé đã mang bản chất giết người?

CÓ THẬT LÀ NHƯ THẾ HAY KHÔNG ?!?

10.              

December 22, 2008 at 9:00 am

BỔ SUNG HÌNH ẢNH MINH HỌA:

Đánh giá một con người căn cứ vào mức độ cống hiến của người ấy cho dân tộc và nhân loại, chứ không phải căn cứ vào sự bình thường hay không bình thường của bộ phận nào đó trong cơ thể (như sinh thực khí chẳng hạn):

Nhân dân tôn thờ danh tướng, anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt (người vốn hi sinh sinh thực khí): LINK 1 | LINK 2

Nhân dân tôn thờ dũng tướng Lê Văn Duyệt (người bị tật nguyền bẩm sinh về sinh thực khí): LINK 3 | LINK 4

WebTgTXA. ( 21-12 HB8 )

11.              

December 22, 2008 at 3:23 pm

THƯ NGƯỜI ĐỌC & WEBTGTXA. TRẢ LỜI:

Ông Nguyễn Vạn (Quảng Bình): Xin hỏi ông Trần Xuân An:

Trong tiểu thuyết “Mùa hè bên sông”, chương 14, ông có để cho một nhân vật nhắc lại câu thơ của Tố Hữu: “Đất không có thánh nhân” và nói tiếp (sau khi đã bàn khá thẳng thắn vào lượng thông tin về Bác Hồ và 2 người thân — anh và chị — của Người là bẩm sinh sinh thực khí của họ không thể thực hiện được chức năng): “nhưng thanh minh, tức là làm rõ sự thật, về Bác như thế, quá bất kính!”. Ông cho tôi biết như thế sao lại gọi là bất kính?

Trần Xuân An trả lời:

Đọc cả đoạn đối thoại của 2 nhân vật trong tiểu thuyết, chắc ông đã hiểu được trạng thái tâm lí áy náy, hối hận của họ, khi bàn về chuyện ấy, nhất là ở nhân vật Nông.

Theo tôi, mặc dù biết mình nói đúng sự thật và nói ra chỉ nhằm mục đích làm rõ sự thật về thực trạng sinh thực khí bẩm sinh tuyệt đối không thể dính líu đến tình dục của Bác Hồ, ông Nguyễn Sinh Khiêm (anh ruột Bác), bà Nguyễn Thị Thanh (chị ruột Bác) để thanh minh trước sự bôi nhọ, xuyên tạc của nhiều người, trong đó có Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Lữ Phương (và sau này, Dương Thu Hương, có thể kể cả Nguyễn Đăng Mạnh), nhưng nhân vật Nông vẫn cảm thấy bất kính, là bởi: Đề cập đến vấn đề sinh dục (cụ thể về sinh thực khí), trong quan niệm của đa số chúng ta, vốn là điều không nên, nhất là đối với một nhân vật lịch sử đã từ lâu trở thành huyền tượng thiêng liêng (như các nhân vật tôn giáo: Đức Mẹ Maria trọn đời đồng trinh, Chúa Jésus, Phật Thích ca, và cả nhân vật huyền thuyết: Phật Bà Quan Âm mắc án oan tạo hoang thai). Nhưng đối với các nhà sử học, y học và nhiều người vốn có óc khoa học, thiên về lí trí khác, đó là chuyện không có gì đáng ngại, và hơn thế nữa, là rất cần thiết, để tránh “vỡ mộng”, như bàn về trường hợp anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt, dũng tướng Lê Văn Duyệt, đúng như câu thơ rất tỉnh táo của Tố Hữu: “Đất không có thánh nhân”.

Tâm lí cảm thấy bất kính của nhân vật Nông là như vậy.

Thành thật cảm ơn ông Nguyễn Vạn (Quảng Bình) đã nêu thắc mắc.

TXA.

( 15:19, 22-12 HB8 )

12.              

December 24, 2008 at 3:21 pm

NÊN BÀN THẢO MỘT CÁCH TÔN KÍNH, ĐÚNG MỰC (Đối Kính [*], một người đọc thân thiết, ghi chú thêm cho khung phía trên: December 22, 2008 at 3:23 pm e):

Khi bàn về vấn đề sinh dục (cụ thể là sinh thực khí) của một người bình thường với danh tính, địa chỉ có thật nào đó đã là một cách thức được xem như xúc phạm, huống gì bàn vấn đề đó của một danh nhân. Nhưng dẫu muốn dẫu không, chúng ta đều thấy câu trả lời trên của WebTgTXA. vô hình trung đã cho mọi người thấy, như ông đã từng viết ở một tác phẩm nào đó: Vấn đề sinh dục không những đã phản ánh vào sử học mà vào cả tôn giáo.

Xin thử liệt kê lại và ghi chú thêm:

1) Đức Mẹ Maria trọn đời đồng trinh. Nói đến cái trinh (màng trinh, trinh tiết) là đã nói đến sinh thực khí, vấn đề tình dục. Đức Mẹ Maria đã sinh nở ra Chúa Jésus. Sinh nở cũng là vấn đề sinh dục. Như vậy, vấn đề sinh dục không phản ánh vào tôn giáo đó sao!

2) Chúa Jésus đến 33 tuổi thì bị đóng đinh trên thập tự giá. Suốt thời trưởng thành đến khi chết vẫn chưa có vợ. Tuy nhiên, có một chi tiết là Chúa Jésus từng có một lần ghé lại nhà của cô gái điếm Madalena (Madelène), được cô ả dùng mái tóc của cô ả, tẩm nước hương, để rửa chân cho Chúa. Nhưng ngay sau đó cô ả liền tin vào giáo lí của Jésus; về sau trở thành nữ thánh. Qua đó, thấy Chúa Jésus ghé nhà thổ nhưng phải chăng không phải để hành dục, mà để giảng đạo, truyền đạo. Cho nên, qua đó, thấy được là: Chúa Jésus cũng thuộc người không liên quan đến sinh dục; vấn đề sinh dục mãi dâm cũng phản ánh vào cả tiểu sử Chúa Jésus.

3) Đức Phật Thích Ca có vợ, có con trước khi xuất gia. Bấy giờ, trong cộng đồng bộ lạc thị tộc, vấn đề hôn nhân thị tộc vẫn là chuyện thường, nên Schumann, qua cuốn “Đức Phật lịch sử”, cho ta thấy nội - ngoại của Đức Phật đều gần gũi về huyết thống. Tôi cho rằng, thái tử Tất Đạt Đa (Đức Phật Thích Ca) xuất gia cũng vì trực nhận ra điều đó. Nhưng chi tiết rõ hơn về vấn đề sinh dục là lúc Phật sắp thành đạo, ngồi dưới gốc bồ đề, vẫn bị nữ ma vương sắc dục quyến rũ. Tất nhiên là Phật chiến thắng. Nhưng qua đó, cũng thấy, vấn đề sinh dục vẫn phản ánh vào tiểu sử Đức Phật Thích ca.

4) Quan Âm Thị Kính nhiều người đã biết. Án oan gây ra hoang thai cho Thị Mầu bị chính Thị Mầu đổ vấy cho chú tiểu Kính Tâm. Đến khi Kính Tâm chết ở cổng tam quan của chùa, người ta tẩm liệm, mới biết chú tiểu Kính Tâm là đàn bà. Như vậy cũng nhờ thấy được sinh thực khí của Kinh Tâm mới biết đích xác là thế. Tích truyện còn cho biết rõ hơn: chú tiểu Kính Tâm chính là nàng Thị Kính (một kiếp của Phật Bà Quan Âm), vốn là vợ của Thiện Sĩ. Và cũng như 3 trường hợp trên, vấn đề sinh dục đã phản ánh vào tôn giáo.

Từ những nhân vật thiêng liêng của tôn giáo ấy, và từ cả những nhân vật lịch sử nước ta nữa (Lý Thường Kiệt, Lê Văn Duyệt…), chúng ta không thể nói là không nên bàn đến vấn đề sinh dục (cụ thể là sinh thực khí) của các danh nhân, nhân vật đã đi vào huyền thoại, sử thi. Đúng ra, rất nên bàn tới, bàn thật rốt ráo. Nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh, trong thời điểm bị những thông tin vu khống, bôi nhọ, xuyên tạc này, càng rất cần làm rõ. Hơn nữa, nếu để quá muộn, sợ là để lại khó khăn về sau cho sử học và dư luận dân gian.

Vấn đề là nên bàn thảo có luận chứng, luận cứ (dữ kiện xác thực), MỘT CÁCH TÔN KÍNH với thái độ biểu cảm đúng mực, ngôn từ diễn đạt trang nhã, minh xác.

___________

WebTgTXA. không dám có ý kiến gì. Xin thành thật cảm ơn người đọc. Nếu không thừa, cũng xin lưu ý: Việt Nam chúng ta từ thời vua Hùng lập quốc cho đến giai đoạn chiến tranh - cách mạng (1858-1975…) vừa qua, có cả một hệ thống danh nhân, anh hùng dân tộc. WebTgTXA. quan niệm rằng, chúng ta học tập, nghiên cứu tất cả những giáo thuyết ngoại lai, nhưng cũng chỉ để vun bồi cho bản sắc, bản lĩnh và trí tuệ, tâm linh Việt Nam chúng ta. Vì vậy, trong tiểu thuyết “Mùa hè bên sông”, mới có đề xuất gửi đến những cộng đồng Việt kiều kính mến và thân ái trên khắp thế giới, mong họ cùng nhau kết tập một bộ Kinh Việt Nam (có thể có bố cục như Kinh Thánh của Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo) để không bao giờ quên nguồn cội Việt Nam.

15: 20 & 19: 20, 24-12 HB8

[*] 25-12 HB8: Sau khi nhận được điện thư phản hồi của vài người bạn thân, WebTgTXA. xin ghi rõ tên người đọc thân thiết đã viết “NÊN BÀN THẢO MỘT CÁCH TÔN KÍNH, ĐÚNG MỰC” là Đối Kính, để tránh ngộ nhận đáng tiếc.

13.              

December 28, 2008 at 9:29 pm

December 28, 2008 at 6:23 am e

Thư ông Đối Kính nhờ chuyển đến ông Ngô Thủ Lễ (28-12-‘’08):

Ông Ngô Thủ Lễ quý mến,

Mặc dù biết ông đã quá thấu hiểu những điều dưới đây, tôi cũng viết gửi ông vài dòng giao cảm:

Không chiến đấu bằng súng đạn thì không thằng thực dân, đế quốc nào trả độc lập cho mình đâu. Chúng lẻo mép cả. Ngay Gandhi đấu tranh bất bạo động cũng phải đổ xương máu (hi sinh xương máu trong khi đấu tranh bất bạo động). Vả lại nước Ấn với Ấn giáo khác nước mình. Nước mình Thiên Chúa giáo khá nhiều, sẵn sàng cộng tác, làm tay sai cho thực dân, đế quốc.

Dẫu thế nào đi nữa, kể cả việc phải làm Hàn Tín (*) cho Nga, Tàu, nhưng đánh được Pháp, góp phần đánh Nhật, lại đánh được Mỹ, trị được Thiên Chúa giáo là quá vinh quang rồi. Không ai hạ bệ Hồ Chí Minh và Đảng CS VN được đâu, nếu lực lượng kế nhiệm không tự phá sản, không hòa hợp, hòa giải dân tộc…

Thân ái,

Đối Kính

(*) Hàn Tín (điển tích Tàu): người chịu nhục để mưu sự nghiệp lớn.

__________________________________________

Thư một độc giả:

Ông Đối Kính viết một câu hơi khó hiểu: “Không ai hạ bệ Hồ Chí Minh và Đảng CS VN được đâu, nếu lực lượng kế nhiệm không tự phá sản, không hòa hợp, hòa giải dân tộc…”.

Phải chăng, ý ông muốn viết: Không ai hạ bệ Hồ Chí Minh và Đảng CS VN được đâu, nếu lực lượng kế nhiệm không tự phá sản và nếu chấp nhận hòa hợp, hòa giải dân tộc một cách thật lòng; hoặc rõ hơn: Không ai hạ bệ Hồ Chí Minh và Đảng CS VN được đâu, nếu lực lượng kế nhiệm không tự phá sản (phá sản bằng tham nhũng, ức hiếp quần chúng; không sử dụng và đào tạo người Miền Nam…) và nếu chấp nhận hòa hợp, hòa giải dân tộc một cách thật lòng (hòa hợp hòa giải dân tộc bằng cách để Miền Nam cho người Miền Nam làm chủ; nói, viết, giảng dạy đúng với sự thật lịch sử…)?

17:02, 28-12 HB8

14.              

December 31, 2008 at 9:46 am

ĐỂ RỘNG ĐƯỜNG CÔNG LUẬN & NGHIÊN CỨU:

Lời thưa trước của WebTgTXA.: Mặc dù vẫn giữ vững nhận thức của Trần Xuân An như các bài đã viết ở bên trên về vấn đề này, WebTgTXA. mạn phép Wikipedia sao chụp lại bài viết “Gia đình Hồ Chí Minh” (Google search), và đăng lại ở đây. Wikipedia là một loại từ điển bách khoa MỞ, do đó thường xuyên có những sửa chữa, bổ sung, cắt bớt. WebTgTXA. không chịu trách nhiệm về những sửa chữa, bổ sung, cắt bớt về sau ở bài viết trên Wikipedia ngày 31-12-‘’08 dưới đây:

Gia đình Hồ Chí Minh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Hồ Chí Minh, chủ tịch quốc gia đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Sen (hay làng Kim Liên), xã Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.

Mục lục

[ẩn]

• 1 Thân sinh

o 1.1 Nguyễn Sinh Sắc

o 1.2 Hoàng Thị Loan

• 2 Các anh chị em

o 2.1 Nguyễn Thị Thanh

o 2.2 Nguyễn Sinh Khiêm

o 2.3 Nguyễn Sinh Nhuận

• 3 Ông bà

o 3.1 Hà Thị Hy

• 4 Vợ

• 5 Chú thích

• 6 Đọc thêm

[sửa] Thân sinh

[sửa] Nguyễn Sinh Sắc

Bài chi tiết: Nguyễn Sinh Sắc

Nguyễn Sinh Sắc (chữ Hán: 阮生色; còn gọi là Nguyễn Sinh Huy: 阮生輝, nhân dân còn gọi tắt là Cụ Phó bảng; 1862 – 1929) là thân sinh của Hồ Chí Minh. Ông là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm và bà Hà Thị Hy, lớn lên trong một môi trường Nho học dưới sự nuôi dạy của nhà Nho và cha vợ của mình là cụ Hoàng Xuân Đường, ông đỗ cử nhân năm 1894 và Phó bảng năm 1901. Năm 1906, ông được triều đình bổ nhiệm chức Thừa biện bộ Lễ[1]; năm 1909, ông nhậm chức Tri huyện Bình Khê tỉnh Bình Định[2]. Làm quan được ít lâu thì bị triều đình thải hồi vì một “tên cường hào” bị ông bắt giam rồi chết sau khi thả ra hai tháng[3]. Sau đó ông đi vào miền Nam và sống một cuộc đời thanh bạch tại Đồng Tháp Mười cho đến cuối đời.

[sửa] Hoàng Thị Loan

Xem thêm Khu mộ bà Hoàng Thị Loan

Bà Hoàng Thị Loan (1868 - 1901) là con gái của cụ Hoàng Xuân Đường, bà được cha mình gả chồng vào năm 15 tuổi. Bà là một hình mẫu cho hình ảnh người Việt Nam hiền hậu và hết lòng vì chồng con: sau khi chồng bà là ông Nguyễn Sinh Sắc đi thi ở Huế, vì túng thiếu tiến bạc nên ngỏ ý mời bà lên kinh giúp ông học tập, bà đã gởi con gái đầu lòng của mình lại Nghệ An và cùng chồng vào Huế. Ở đây bà đã lao động dệt vải vất vả một tay nuôi sống cả gia đình. Năm 1900 sau khi sinh người con thứ tư là Nguyễn Sinh Xin, cộng với sự vất vả khó nhọc trước đó bà Hoàng Thị Loan sinh bệnh rồi qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1901. Năm 1922, hài cốt của bà được cô Nguyễn Thị Thanh đưa về an táng tại vườn nhà mình ở Làng Sen, Kim Liên. Năm 1942, cải táng tại núi núi Động Tranh thấp, thuộc dãy núi Đại Huệ. 1985, nhân dân và chính quyền địa phương xây dựng tại đây một khu lăng mộ dành cho bà[4].

[sửa] Các anh chị em

[sửa] Nguyễn Thị Thanh

Bà Nguyễn Thị Thanh (1884 - 1954) là người chị cả, có hiệu khác là Bạch Liên nữ sĩ, bà hoạt động tích cực chống Pháp dưới ngọn cờ yêu nước của chí sĩ Phan Bội Châu. Năm 1918 bà Nguyễn Thị Thanh phối hợp với Nguyễn Kiên tổ chức lây trộm súng trong doanh trại lính khố xanh đóng tại thành phố Vinh. Bị phát giác nên Nguyễn Thị Thanh bị bắt và nhốt vào nhà tù tra tấn dã man. Vào năm 1918, thực dân Pháp chỉ thị cho qua lại địa phương mở phiên tòa số 80 xử phạt bà Nguyễn Thị Thanh 100 trượng và 9 năm khổ sai. Ngày 2 tháng 12 năm 1918, Nguyễn Thị Thanh bị đày vào giam tại nhà lao Quảng Ngãi. Án sát tỉnh Quảng Ngãi lúc đó là Phạm Bá Phổ có người vợ bị bệnh đau ở vú không cho con bú được dù đã được cố gắng cứu chữa. Thương người phụ nữ bị bệnh hoạn, bà Nguyễn Thị Thanh đã chữa cho, ít ngày sau bệnh khỏi, dòng sữa con bú được phục hồi. Chính điều này đã làm Phạm Bá Phổ rất nể bà[cần dẫn nguồn].

Theo lời kể của nhà văn Sơn Tùng, bà Thanh nói lý do tại sao bà không lập gia đình[5]:

“O đã già, không dễ gì ngồi nói lại những chuyện này với một người trẻ tuổi như cháu. Nhưng biết cháu là một người có thể thấu hiểu thì o mới nói- Cũng như cậu Khiêm, O cũng bị kẻ thù tra tấn dã man. Cháu có tưởng tượng được không? Chúng nung đỏ chiếc mâm đồng… Một chiếc mâm đồng nung đỏ mà chúng bắt O ngồi lên đó… Một nỗi đau đớn đến tận cùng xuyên sâu từ da thịt vào xương tủy… Nhiều ngày sau đó O không đi lại được… Vết bỏng đã làm biến dạng cả cơ thể, xoắn vặn cả tâm hồn O. Vậy thì, làm sao O có thể có gia đình được nữa…

Thấy cô Thanh là người vừa xinh đẹp lại vừa thông minh, Phổ muốn đưa về nhà riêng làm hành dịch và dạy cho con cái học.Dù quy chế của thực dân Pháp và triều đình Huế cấm việc đó, nhưng người anh kết nghĩa của Phạm Bá Phổ là Xô đứng đầu mật thám trung kỳ đã cho phép Phổ đưa cô Thanh từ nhà tù về ở trong nhà Phạm Bá Phổ[cần dẫn nguồn].

Vào năm 1922, Phạm Bá Phổ được triều đình Huế thăng cho Phổ làm tham tri bộ hình. Bà Nguyễn Thị Thanh cũng đi theo. Ở đây bà đã đem hài cốt của mẹ mình về cải táng tại Nghệ An[6][7].

[sửa] Nguyễn Sinh Khiêm

Nguyễn Sinh Khiêm (1888 – 1950) là con thứ hai của trong gia đình cụ Phó bảng, sau chị cả Nguyễn Thị Thanh và là anh trai của Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Sinh Nhuận.

Ông còn được gọi là Cả Khiêm, tên tự là Tất Đạt. Thời thanh niên, ông tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên từng bị tù đày nhiều nǎm. Do hành nghề thầy thuốc và thầy địa lý, ông còn có biệt danh là “Thầy Nghệ”. Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Giáng (1897-1960) và có với nhau ba người con nhưng đều chết sớm. Người con duy nhất của hai người, con riêng của bà Giáng, là Hà Hữu Thừa, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Chanh, em con chú ruột của bà Nguyễn Thị Cúc - vợ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chị dâu của bà vợ cựu Đại sứ Hà Văn Lâu và cũng là chị dâu của bà Nguyễn Thị Giáng[8], bà Nguyễn Thị Giáng là người làng Phú Lễ (thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) nằm bên bờ bắc sông Bồ, cách phía đông chợ An Lỗ chừng 2 km, cách phía Bắc trung tâm Huế 20 km. Bà Giáng đã có một đời chồng người họ Hà làng Phú Ốc. Không may chồng bà mất sớm, để lại cho bà một người con trai còn đi chập chững. Từ ngày chồng chết, bà Giáng hay đau ốm, thuốc thang mãi vẫn không khỏi. May được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh. Bà gởi tiền thầy nhưng ông Cả không nhận.

Sau ngày bà Giáng mãn tang chồng (1930), ông Cả Khiêm đến ăn ở với bà Giáng. Cậu bé con trai của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả thương yêu dạy dỗ như con đẻ. Cuối năm 1933, bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Cao lên 3 tuổi thì mất vì bệnh.

Năm 1937, bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ hai Nguyễn Thị Ba. Đang ở Huế, được tin có cháu gọi bằng cô, bà Nguyễn Thị Thanh - chị ruột ông Cả, về Phú Lễ thăm và ở lại một thời gian để chăm sóc cháu. Đến đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả thương con muốn phát điên vì ông làm thầy thuốc mà không cứu được con. Tháng 2 năm 1940, ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An.

Về quê, ông cho rằng nơi táng thân mẫu ông trong vườn nhà ở Kim Liên không tốt nên ông cải táng lên núi Đại Huệ. Sau đó ông lên Vinh tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, rồi lại mở lớp dạy võ cho thanh niên. Thực dân Pháp nghi ông tập hợp thanh niên để hoạt động chống Pháp nên đã bắt giam ông mấy tháng. Theo lời bà Thanh kể lại với nhà văn Sơn Tùng, ông Khiêm đã bị thực dân Pháp “triệt nòi giống bằng cách tiêm thuốc”[9].

Năm 1941, ông bị buộc phải trở lại Huế để Pháp dễ bề theo dõi ông.

Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông. Và cũng chỉ nuôi được 6 tháng rồi cậu bé cũng mất. Đau khổ vì chuyện mất con lần thứ ba, ông Cả lại bỏ nhà ra đi. Lần này ông ra Phong Điền với thầy Lê Văn Miến.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3 năm 1945), lính Nhật rải ra đóng đồn giữ các cầu trên quốc lộ 1. Lính Nhật gác cầu An Lỗ hay về chợ Phú Lễ mua thực phẩm. Nhân đó ông Cả Khiêm và ông Ấm Hoàng (bác ruột của bà Nguyễn Thị Chanh) hay bút đàm với người Nhật để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Nhật và Đồng Minh, đặc biệt là với quân đội Liên Xô. Nhờ thế mà các ông sớm biết được cái tin Nhật đầu hàng quân đội Đồng Minh vào trung tuần tháng 8 năm 1945.

Sau ngày 23 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công ở Huế, ông mới biết được Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo cách mạng thành công - chính là Nguyễn Ái Quốc em trai ông.

Đầu năm 1946, ông cùng Hà Hữu Thừa (con trai của vợ ông) và Nguyễn Hữu Tạo (cháu ông Ấm Hoàng) đi tàu hoả ra Hà Nội thăm người em làm Chủ tịch Nước. Sau chuyến thăm viếng đó, ông cho hai thanh niên trở lại Huế ăn Tết Bính Tuất và tham gia công tác cách mạng, còn ông thì ghé về thăm quê. Không ngờ cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông không còn cơ hội để trở lại Phú Lễ với bà Giáng nữa. Ông qua đời tại Nghệ An vào cuối năm 1950, hưởng thọ 62 tuổi.

[sửa] Nguyễn Sinh Nhuận

Nguyễn Sinh Nhuận (1900 - 1901), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin[10], là con út trong gia đình, sau khi sinh cậu, bà Hoàng Thị Loan bệnh nặng và mất đi. Nguyễn Sinh Xin được gửi về quê ngoại Hoàng Trù để chăm sóc nhưng vì ốm yếu nên qua đời mấy tháng sau đó[11].

[sửa] Ông bà

[sửa] Hà Thị Hy

Hà Thị Hy là bà nội của Hồ Chí Minh, mẹ của ông Nguyễn Sinh Sắc[12]. Cuộc đời bà gắn với một giai thoại được truyền tụng trong dân gian , bà cũng là đối tượng của một số nghiên cứu khoa học về nhân vật lịch sử[13].

Ban đầu, ông Nguyễn Sinh Khiêm đem cả hài cốt bà Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan lên táng gần nhau ở chân núi Động Tranh thấp. Về sau này, ông đã quyết định để mộ bà Hy dưới chân núi và đem mộ mẹ lên táng ở vị trí hiện nay để du khách đến viếng mộ bà Hoàng Thị Loan cũng sẽ viếng được mộ bà Hà Thị Hy trước[12].

[sửa] Vợ

Bài chi tiết: Tăng Tuyết Minh

Tăng Tuyết Minh sinh vào tháng 10 năm 1905 tại thành phố Quảng Châu, Trung Quốc. Bà quê ở huyện Mai tỉnh Quảng Đông, cha là Tăng Khai Hoa làm nghề buôn bán, mẹ bà là Lương thị, vợ kế của Tăng Khai Hoa. Người cha qua đời khi Tăng Tuyết Minh mới lên mười.

Mùa hè năm 1926, qua sự mai mối của một trợ thủ đắc lực là Lâm Đức Thụ [14], Nguyễn Ái Quốc gặp Tăng Tuyết Minh, ông rất có cảm tình với cô gái Quảng Châu có gương mặt trái xoan, da trắng, điềm đạm, đoan trang, thông minh này.

Tháng 10 năm 1926, Nguyễn Ái Quốc, khi đó lấy tên là Lý Thụy, tổ chức hôn lễ tại nhà hàng Thái Bình, với sự chứng kiến[15] của Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một bộ phận học viên khoá huấn luyện phụ vận. Đây cũng là địa điểm mà Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu tổ chức kết hôn trước đó một năm. Cuộc hôn nhân này ban đầu bị mẹ Tăng Tuyết Minh phản đối vì bà lo Nguyễn Ái Quốc hoạt động nay đây mai đó không ổn định, nhưng lại được Tăng Cẩm Tương, anh của Tăng Tuyết Minh, tán thành vì nhận xét Nguyễn Ái Quốc là người có học vấn, cẩn trọng và tâm huyết với sự nghiệp.[15]. Theo sử gia người Pháp Pierre Brocheux trong cuốn tiểu sử Ho Chi Minh: A Biography, một số đồng sự của Lý Thụy như Nguyễn Hải Thần và Lê Hồng Sơn cũng phản đối cuộc hôn nhân. Trong một lá thư cho các đồng sự, Lý Thụy đã giải thích lý do cưới Tăng Tuyết Minh là vì ông cần một phụ nữ để dạy ngôn ngữ và chăm lo nhà cửa.[14]

Ngày 12 tháng 4 năm 1927, sau khi Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh kết hôn đuợc nửa năm, Tưởng Giới Thạch phát động cuộc chính biến tại Thượng Hải. Nguyễn Ái Quốc phải chuyển đến Vũ Hán vì trụ sở của đoàn cố vấn Lao Liên chuyển đến đây. Tuy nhiên do tình thế lúc bấy giờ, sau khi đến Vũ Hán, Nguyễn Ái Quốc lại chuyển đến Thượng Hải, rồi đi sang Nga, vòng qua châu Âu rồi về Thái Lan…

Về phần mình, Tăng Tuyết Minh gia nhập Đoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa. Từ tháng 7 năm 1927 đến tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh vào học tại trường Anh văn Kiêm Bá và trường Trung học nữ sinh Tân Á. Từ tháng 7 năm 1929 đến đầu năm 1930, Tăng Tuyết Minh rời Quảng Châu, làm nữ hộ sinh huyện Thuận Đức quê ngoại.

Ngày 5 tháng 6 năm 1931 Nguyễn Ái Quốc bị các nhà cầm quyền Anh bắt sau khi trở lại Hương Cảng. Đến cuối năm 1931, nhà cầm quyền Anh ở Hương Cảng đem Nguyễn Ái Quốc ra xét xử, tuy nhiên Tăng Tuyết Minh chỉ có thể nhìn thấy ông từ rất xa, còn ông thì hoàn toàn không biết bà có mặt tại toà. Đây là lần sau cùng bà Tăng Tuyết Minh nhìn thấy Nguyễn Ái Quốc.

Theo bài “Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, đã đăng trên tạp chí Đông Nam Á tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), số tháng 11-2001 xuất bản tại Nam Ninh của Hoàng Tranh thì tháng 5 năm 1950 bà Tăng Tuyết Minh, nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên Nhân dân Nhật báo cùng với tiểu sử, bà tin chắc đó chính là chồng mình. Bà đã cố gắng liên lạc với ông qua đại sứ Hoàng Văn Hoan và tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng tất cả cố gắng của bà đều không thành. Hồ Chí Minh cũng từng thông qua Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu và Đào Chú, Bí thư Trung Nam cục dò tìm tung tích của Tăng Tuyết Minh nhưng không có kết quả.

Năm 1977 bà về hưu, sau 52 năm tận tuỵ với nghề nữ hộ sinh. Ngày 14 tháng 11 năm 1991, bà Tăng Tuyết Minh qua đời tại Quảng Châu, thọ 86 tuổi.

[sửa] Chú thích

1. ^ Bộ Văn hóa thể thao và du lịch Việt Nam, Di tích Trường Quốc học Huế

2. ^ Bộ Văn hóa thể thao và du lịch Việt Nam, Khu mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc

3. ^ Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929)

4. ^ Bà Hoàng Thị Loan - tấm gương sáng về “tứ đức”

5. ^ Cuộc gặp gỡ với người suốt đời chờ đợi thần tượng Nguyễn Tất Thành

6. ^ Huyền thoại huyệt đạo bà Hoàng Thị Loan trên núi Động Tranh - Chương II

7. ^ Bà Hoàng Thị Loan - tấm gương sáng về “tứ đức”

8. ^ Nguyễn Đắc Xuân, Làng Phú Lễ - một quãng đời của người anh Bác Hồ, Báo Lao Động, số Xuân 2004.

9. ^ Cuộc gặp gỡ với người suốt đời chờ đợi thần tượng Nguyễn Tất Thành

10. ^ Ngôi nhà Thành Nội - Địa chỉ xúc động về thời niên thiếu của Bác Hồ

11. ^ Chủ tịch Hồ Chí Minh thời niên thiếu

12. ^ a b Nhân chứng cuối cùng của huyền thoại núi Đại Huệ

13. ^ Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh

14. ^ a b Pierre Brocheux (2007). Ho Chi Minh: A Biography, 39-40, Cambridge University Press.

15. ^ a b Bài Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh đăng trên tạp chí Đông Nam Á Tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), số tháng 11 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc, tác giả: Hoàng Tranh (Phó Giáo sư, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc) [*]

[sửa] Đọc thêm

• Những người thân trong gia đình Bác Hồ, NXB Trẻ

NGUỒN:

Lấy từ WIKIPEDIA: Bài viết GIA ĐÌNH HỒ CHÍ MINH

Thể loại: Hồ Chí Minh

_______________________

[*] WebTgTXA: trích theo lời của Tạp chí điện tử Diễn Dàn (?) về bài viết của Hoàng Tranh: “Theo Hoàng Tranh, gia đình bà theo đạo Công giáo từ đời ông nội, và bà “thường xuyên đi lễ ở giáo đường”. Bà “có thói quen ăn uống đạm bạc, không dùng cá thịt”, cuộc sống “vô cùng giản dị”, “luôn vui vẻ giúp người”…”. Phải chăng đây là một cuộc hôn nhân được tạo ra để làm “vỏ bọc” trong khi Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng? Hay là, thông tin này được tung ra với dụng ý gì khác?

Website Diễn Đàn (diendan . org): “bài báo « Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc [mộ đạo Công giáo] của Nguyễn Ái Quốc » của tác giả Hoàng Tranh (Huang Zheng), sử gia, viện phó Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, đăng trong tạp chí Đông Nam Á tung hoành, số tháng 11/2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc ; Diễn Đàn số 121, tháng 9/2002 đăng lại bản dịch tiếng Việt”.

15.              

December 31, 2008 at 2:29 pm

THAM KHẢO

“Cuốn sách “Búp sen xanh” nêu lên một vấn đề: ở đây tiểu thuyết và lịch sử có thể gặp nhau không? Vấn đề này các đồng chí hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và nói chung tất cả chúng ta cần suy nghĩ để có thái độ. Song ở đây cũng vậy, lời nói có trọng lượng rất lớn thuộc về người đọc, nghĩa là nhân dân”.

(trích nguyên văn từ lời tựa do thủ tướng Phạm Văn Đồng viết)

*0*0*0*0*0*

CUỘC GẶP GỠ VỚI NGƯỜI SUỐT ĐỜI CHỜ ĐỢI THẦN TƯỢNG NGUYỄN TẤT THÀNH

Báo điện tử Tiền Phong, Thứ Bảy, 22/04/2006, 09:59

Tác giả bài báo: Thiên Sơn

(trích nguyên văn)

“… Có một điều băn khoăn từ rất lâu, khi đã trở nên gần gũi và được tin cậy, chọn một thời điểm thích hợp, nhà văn Sơn Tùng hỏi bà Nguyễn Thị Thanh:

- O ơi, cháu có điều này xin được hỏi O, mong o hiểu … cháu muốn được thấu rõ những điều…

Bà Thanh tiếp lời:

- Cháu cứ hỏi, không phải e ngại, miễn là điều đó có thể nói được với cháu thì O sẽ nói .

Sau phút do dự, nhà văn thổ lộ điều tâm sự của mình:

- Cháu biết điều này không dễ gì… Nhất là lại hỏi với người bề trên… Nhưng mong O xá lỗi và cho cháu biết… Tại sao ba chị em O lại đều không xây dựng gia đình? Có gì ẩn khuất sau chuyện này không hả O?

Bà Thanh quay nhìn ra khu vườn xanh. Ngọn gió chiều lao xao trên tàu lá. Đôi mắt bà trở nên hoang vắng. Bà im lặng. Một niềm im lặng thẳm sâu mà như nói lên biết bao điều. Lúc sau bà cất giọng trầm, nén bên trong những rung cảm mãnh liệt:

- Hoàn cảnh nhà O… - Bà Thanh kìm một tiếng thở dài – Biết bao gian khó hiểm nghèo… Có nói ra cháu chưa chắc đã hình dung hết được… Cậu Thành thì đi xuất dương tìm con đường cứu nước. O và cậu Khiêm bị đi đày. Cậu Khiêm bị thực dân Pháp tra tấn dã man và tìm cách triệt nòi giống bằng cách tiêm thuốc… Khi ra tù thì tuổi đã cao, có những nỗi niềm u uẩn…

Bà Thanh như nghẹn lại, mắt ứa lệ:

- O đã già, không dễ gì ngồi nói lại những chuyện này với một người trẻ tuổi như cháu. Nhưng biết cháu là một người có thể thấu hiểu thì o mới nói- Cũng như cậu Khiêm, O cũng bị kẻ thù tra tấn dã man. Cháu có tưởng tượng được không? Chúng nung đỏ chiếc mâm đồng… Một chiếc mâm đồng nung đỏ mà chúng bắt O ngồi lên đó… Một nỗi đau đớn đến tận cùng xuyên sâu từ da thịt vào xương tủy… Nhiều ngày sau đó O không đi lại được… Vết bỏng đã làm biến dạng cả cơ thể, xoắn vặn cả tâm hồn O. Vậy thì, làm sao O có thể có gia đình được nữa…”.

“… Năm 1980 cụ Lê Thị Huệ qua đời. Năm 1981 Nhà văn Sơn Tùng bắt tay vào viết tiểu thuyết “Búp sen xanh” về thời tuổi trẻ của Bác Hồ. Trong tiểu thuyết này có nhân vật út Huệ và mối tình trong trắng không cất nên lời.

Cuốn sách này đến nay trở thành một trong những tiểu thuyết có lượng ấn hành lớn nhất ở nước ta với hơn nửa triệu bản. Tuy nhiên thời kỳ đó, có những quan điểm khác nhau về nhân vật út Huệ…

Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi đọc xong “Búp sen xanh” đã mời nhà văn Sơn Tùng lên trò chuyện thân mật. Thủ tướng có hỏi về nhân vật út Huệ…

Và chính Thủ tướng đích thân viết lời tựa cho “Búp sen xanh” khi tái bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, vì những lý do tế nhị, đầu năm 2005 lời tựa này mới được công bố. Trong lời tựa có đoạn: “Cuốn sách “Búp sen xanh” nêu lên một vấn đề: ở đây tiểu thuyết và lịch sử có thể gặp nhau không? Vấn đề này các đồng chí hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và nói chung tất cả chúng ta cần suy nghĩ để có thái độ. Song ở đây cũng vậy, lời nói có trọng lượng rất lớn thuộc về người đọc, nghĩa là nhân dân”.

Nhà văn Sơn Tùng cho biết, những gì trong “Búp sen xanh” chỉ là sự hé mở một phần… Đó là lý do tại sao ông còn phải viết cuốn “Bông Huệ trắng”. Cuốn sách sẽ là một bản tình ca vô cùng trong trắng và thiêng liêng về mối tình của một con người đã nguyện dành suốt cả cuộc đời mình chờ đợi một thần tượng đã có sức toả sáng, lay động đến tận cùng tâm hồn mình. Người đó là Lê Thị Huệ…”.

Link: http : // www . tienphong . vn/ Tianyon / Index. aspx?ArticleID= 44746&ChannelID=7

Bấm vào đây

————————————————–

LÀNG PHÚ LỄ - MỘT QUÃNG ĐỜI CỦA NGƯỜI ANH BÁC HỒ

Nguyễn Đắc Xuân

Báo điện tử Lao Động, số Xuân Giáp thân 2004

(trọn bài)

Sau năm 1975, trong khi đi sưu tập tư liệu về thời niên thiếu của Bác Hồ, tôi được nghe ông Nguyễn Ngọc Bang (một cơ sở cách mạng ở Huế thời chống Pháp) quê ở làng Phú Lễ, kể chuyện ông Nguyễn Sinh Khiêm - bào huynh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từng có vợ và có con ở quê ông. Qua xác minh, tôi thấy những chuyện đó có thật.

Làng Phú Lễ (thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, TT - Huế) nằm bên bờ bắc sông Bồ, cách phía đông chợ An Lỗ chừng 2km, cách phía bắc trung tâm Huế 20km. Về Phú Lễ tôi được gặp bà Nguyễn Thị Chanh là cháu bên ngoại của vợ đồng chí Lâm Mộng Quang, em con chú ruột của bà Nguyễn Thị Cúc - vợ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chị dâu của bà vợ cựu Đại sứ Hà Văn Lâu và cũng là chị dâu của bà vợ ông Cả Khiêm. Bà Chanh tuy đã trên 80 tuổi nhưng còn khoẻ mạnh, minh mẫn, trí nhớ rất tốt.

Bà Chanh cho biết vào cuối những năm hai mươi, cụ Phan Bội Châu mở tại nhà riêng trên đỉnh dốc Bến Ngự một lớp học. Ông Ấm Hoàng (bác ruột của bà Chanh) từ Phú Lễ đem người em là Nguyễn Hữu Quế vào học và sau đó ông có nhiều dịp lui tới thăm viếng cụ Phan. Dưới mái tranh nhà cụ Phan, ông Ấm đã gặp ông Cả Nguyễn Sinh Khiêm nhiều lần.

Có lẽ do những lần gặp gỡ ấy, hai người quen nhau. Năm 1929, ông Cả về Phú Lễ vừa làm thầy thuốc vừa tìm nơi “an trí” liền được ông Ấm mời lưu lại trong nhà bên chợ Phú Lễ.

Biết ông Cả về ở Phú Lễ, cụ Phan Bội Châu bảo ông Ấm:

- “Có ai ngó được, chú cưới cho Cả Khiêm một người để giữ chân anh ta lại!”.

Từ nhà ông Ấm, ông Cả được mời sang thăm mạch bốc thuốc cho bà Nguyễn Thị Giáng ở ngôi nhà rường bán hàng xén, chỉ cách nhà ông Ấm vài căn. Bà Giáng đã có một đời chồng người họ Hà làng Phú Ốc. Không may ông chồng qua đời, để lại cho bà một người con trai còn đi chập chững. Từ ngày chồng chết, bà Giáng hay đau ốm, thuốc thang hoài vẫn không khỏi. May sao bà được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh. Bà gởi tiền thầy ông Cả không nhận.

Sau ngày bà Giáng mãn tang chồng (1930), ông Cả Khiêm đến ăn ở với bà Giáng. Cậu bé con trai của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả thương yêu dạy dỗ như con đẻ. Cuối năm 1933, bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Cao lên 3 tuổi thì mất vì bệnh.

Năm 1937, bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ hai Nguyễn Thị Ba. Đang ở Huế, được tin có cháu gọi bằng cô, bà Nguyễn Thị Thanh - chị ruột ông Cả, về Phú Lễ thăm và ở lại trong nhà bà Giáng cả tuần lễ để chăm sóc cháu. Đến đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả thương con muốn phát điên luôn. Ông làm thầy thuốc mà không cứu được con. Buồn tình, tháng 2.1940, ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An.

Về quê, ông cho rằng nơi táng thân mẫu ông trong vườn nhà ở Kim Liên không tốt nên ông cải táng lên núi Đại Huệ. Sau đó ông lên Vinh tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, rồi lại mở lớp dạy võ cho thanh niên. Bọn thực dân nghi ông tập hợp thanh niên để hoạt động chống Pháp, chúng bắt giam ông mấy tháng.

Qua năm 1941, ông bị buộc phải trở lại Huế để Pháp dễ bề theo dõi ông.

Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông. Và cũng chỉ nuôi được 6 tháng rồi cậu bé cũng mất. Đau khổ vì chuyện mất con lần thứ ba, ông Cả lại bỏ nhà ra đi. Lần này ông ra Phong Điền với thầy Lê Văn Miến.

Ông Lê Văn Yên, con trai thứ của cụ Lê Văn Miến kể rằng:

- “Từ đầu năm 1943 thầy tôi đưa gia đình về Phò Trạch ở trong một ngôi nhà do lòng hảo tâm của học sinh cũ của thầy tôi mua tặng. Trong những năm ấy ông Cả Khiêm an trí ở Phú Lễ hay ra thăm thầy tôi, đôi khi ông ở lại trong nhà hàng tuần lễ. Trong những ngày ấy ông Cả hay ngồi đàm đạo với thầy tôi, kể lại những kỷ niệm hai anh em Đạt Thành học với thầy tôi tại Trường Quốc học Huế. Khi thầy tôi mất (6.6.1943) có hai người học trò đứng chịu tang: Người thứ nhất là ông Nguyễn Trác đại diện cho học sinh Quốc Tử Giám, thứ hai là ông Cả Khiêm /Nguyễn Tất Đạt đại diện cho học sinh Quốc học”.

Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp (9.3.1945), lính Nhật rải ra đóng đồn giữ các cầu trên quốc lộ 1. Lính Nhật gác cầu An Lỗ hay về chợ Phú Lễ mua thực phẩm. Nhân đó ông Ấm Hoàng và ông Cả Khiêm hay bút đàm với người Nhật để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Nhật và Đồng minh, đặc biệt là với quân đội Liên Xô. Nhờ thế mà các ông sớm biết được cái tin Nhật đầu hàng quân đội Đồng minh vào trung tuần tháng 8.1945.

Đến ngày 23.8.1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Huế. Ông Cả cùng với dân chúng hân hoan vô cùng. Ông ra sức vận động thanh niên tham gia cách mạng. Khi biết được Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo cách mạng thành công, chính là Nguyễn Ái Quốc em trai ông, ông sung sướng vô cùng.

Đầu năm 1946, ông dắt hai người thanh niên là Hà Hữu Thừa (con trai của vợ ông) và Nguyễn Hữu Tạo (cháu ông Ấm Hoàng) đi tàu hoả ra Hà Nội thăm người em làm Chủ tịch Nước. Sau chuyến thăm viếng đó, ông cho hai thanh niên trở lại Huế ăn Tết Bính Tuất và tham gia công tác cách mạng, còn ông thì ghé về thăm quê. Không ngờ cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông không còn cơ hội để trở lại Phú Lễ với bà Giáng nữa. Ông mất ở quê nhà vào cuối năm 1950.

Được ông chăm sóc, dạy dỗ hai anh Hà Hữu Thừa và Nguyễn Hữu Tạo rất trưởng thành. Nguyễn Hữu Tạo hoạt động tình báo, sau bị bắt, bị giam đến chết ở Chín hầm của Ngô Đình Cẩn. Hà Hữu Thừa phục vụ trong quân đội, năm 1992 về hưu với quân hàm đại tá.

Bà Nguyễn Thị Giáng có được 16 năm (1930-1946) làm vợ ông Cả Khiêm. Bà có với ông 3 người con, tiếc là không nuôi được một người nào. Người con riêng của bà theo kháng chiến mất liên lạc. Ông Cả Khiêm thì về. Một mình bà ở lại Phú Lễ vò võ chờ chồng, trông con. Đến năm 1960 bà qua đời.

So với thời ông Cả ở, cảnh quan Phú Lễ ngày nay rất khác xưa. Con đường làng men sông Bồ bị sụt lở nhiều đoạn. Cái xóm nhà bên sông trước chợ mà ông hay lui tới đã trôi mất từ lâu. Chợ Phú Lễ bỏ hoang. Vị trí nền móng ngôi nhà ông Ấm Hoàng - nơi ông Cả Khiêm về tá túc một thời gian vẫn còn, nhưng đã đổi chủ nhiều lần.

Ngôi nhà rường của bà Nguyễn Thị Giáng - nơi ba người con của ông Cả Khiêm ra đời đã sửa chữa nhiều lần nhưng cơ bản vẫn giữ được bóng dáng cũ. Sau ngày bà Giáng qua đời (1960), ngôi nhà được bán cho ông Bốn, sau năm 1975, ông Bốn bán lại cho gia đình ông Đặng Thông Chánh.

Mộ của bà Giáng và ba người con ông Cả Khiêm chôn trong nghĩa địa họ Nguyễn Tăng nằm phía sau Trường THCS Phú Lễ bên đường ôtô An Lỗ - Sịa. Nghĩa địa rộng ba sào, họ Nguyễn Tăng dành làm nơi an nghỉ của con cháu trong họ. Tiếc thay, sau 1975, người khác họ xin địa phương vào đào bới chôn cất lung tung. Vì thế ba ngôi mộ của ba người con ông Cả đều bị mất dấu. Đại tá Hà Hữu Thừa nhiều lần về quê ngoại tìm mộ của ba người em cùng mẹ với mình nhưng đành bất lực. May sao, mộ của bà Nguyễn Thị Giáng - mẹ ông, vẫn còn nguyên vẹn. Ông sửa sang mộ mẹ và dựng tấm bia khắc mấy chữ: “Mộ bà Nguyễn Thị Giáng, 1897-1960, kỵ 9.9 âm lịch. Con Hà Hữu Thừa phụng lập”.

Ông Cả Khiêm đã xa Phú Lễ gần 60 năm. Ở Phú Lễ ngày nay không còn mấy người thân quen biết ông. Tuy nhiên, chuyện ông Cả về làm thuốc rồi làm rể ở Phú Lễ giống như chuyện đời xưa. Mỗi lần dân làng có dịp đề cập đến gia đình của Bác Hồ, người ta lại nhắc đến ông Cả, nhắc đến một ông thầy thuốc mặc bộ đồ nâu, đội nón lá 17 vành quá cỡ, thích uống rượu, thích đọc sách, thích câu cá, tốt bụng, khi nào cũng vui vẻ với mọi người.

Ba người con ông mất sớm, mộ phần chưa tìm ra dấu tích, nhưng chắc chắn ba cái hài cốt mang dòng máu Nguyễn Sinh/ Nguyễn Tất ấy đã tan hoà vào đất Phú Lễ. Lưu niệm sâu lắng nhất của ông Cả ở đây có lẽ là mảnh đất có xương thịt của ba người con ông và ngôi mộ của bà Nguyễn Thị Giáng - vợ ông.

Trước đây, người ta quan niệm Huế là quê hương thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay ta có thể nói thêm “Thừa Thiên - Huế cũng là quê hương thứ hai của gia đình Bác Hồ”.

Link: http : // www1. laodong. com. vn/ sodara/ xuan2004/ vanhoa/ 63. htm

Bấm vào đây

________________________________________

Ý KIẾN CỦA WEBTGTXA.:

WebTgTXA. không dám có nhận xét nào, vì đây là những bài viết đề cập đến người chị ruột, người anh ruột của cố chủ tịch Hồ Chí Minh và về chính Người, được đăng trên báo chí chính thống trong nước. Nhưng đó cũng chỉ là báo chí, không phải là sách sử học chính thống của Đảng CS.VN. và Nhà nước CHXHCN.VN.. … Tuy vậy, sơ khởi, có các điểm không thể không lưu ý:

1) Câu trích lời tựa của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng viết cho cuốn tiểu thuyết “Búp sen xanh” (Sơn Tùng) không khẳng định lượng thông tin trong đó là xác thực, mà chỉ nêu nghi vấn.

2) Thông tin từ bài báo của ông Thiên Sơn (những điểm WebTgTXA. mạn phép nhấn đậm [*]), phải chăng đã hoàn toàn bác bỏ lượng thông tin trong bài báo của ông Nguyễn Đắc Xuân.

3) Nếu bài viết trên Wikipedia và 2 bài viết này đều xác thực về các thông tin, thì thông tin trong các cuốn sách của Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Lữ Phương, Nguyễn Đăng Mạnh, Dương Thu Hương… vẫn còn tạo ra tình trạng nửa tin nửa ngờ trong công luận.

4) Nếu tỉnh táo, chúng ta có thể rút ra một lượng thông tin xác thực nhất, xác thực đến mức tuyệt đối (100%): 3 anh chị em của chủ tịch Hồ Chí Minh đều không vợ không chồng và cho đến nay vẫn không có ai là con cháu ruột của họ. Đó là sự thật tuyệt đối. Từ sự thật ấy, có nhiều cách lí giải khác nhau, trong đó phần nhiều là hư cấu, thêu dệt hoặc đơm đặt, tùy theo thiện ý hay ác ý. [**]

[*] “Cậu Khiêm bị thực dân Pháp tra tấn dã man và tìm cách triệt nòi giống bằng cách tiêm thuốc… Khi ra tù thì tuổi đã cao, có những nỗi niềm u uẩn…”.

[**] Xem lại cách lí giải của Trần Xuân An (bấm vào các từ link-hóa)

14:40, 31-12 HB8 (2008),

ngày cuối năm dương lịch HB08

WebTgTXA.

16.              

January 1, 2009 at 9:07 am

THƯ CỦA ÔNG ĐỐI KÍNH (TP.HCM.):

Xin gửi đến WebTgTXA. một đoạn trích từ một bài báo điện tử:

“… Trong suốt cuộc đời chính trị, Hồ Chí Minh dùng đến mấy chục tên khác nhau và hàng loạt nghề nghiệp, kể cả đóng vai chồng hờ trong những trường hợp đặc biệt để che giấu hành tung. Tuy hoá trang giỏi nhưng có lẽ cho đến ngày nay khó có ai có thể đóng giả một vai trong nhiều năm mà tình báo quốc tế cũng như người đối lập với ông không biết.

Điểm quan trọng nhất trước đây cụ Hoàng Văn Chí cũng đã nêu ra để nhận biết Hồ Chí Minh sau năm 1945 chính là Nguyễn Ái Quốc là cái tai nhọn rất khác thường mà không ai có thể giả tạo được. Hình đôi tai của Hồ Chí Minh đối chiếu với nhân dạng trong hồ sơ của chính quyền thuộc địa đã giúp người ta truy tầm ra lý lịch ông một cách chắc chắn …”.

(trích từ bài viết: Nguyễn Duy Chính (California, USA.),“Nhận xét về cuốn ‘Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo’”, website BBCVietnamese, 31 Tháng 12-2008 - Cập nhật 14h40 GMT)

http : // www . bbc. co. uk / vietnamese/ forum/story/ 2008/12/081231_ hochiminh_ book_review. shtml

1) Ông Nguyễn Duy Chính cũng có nhận định y như WebTgTXA.: cuộc hôn nhân giữa Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh (nếu đúng như thế) chỉ để làm “vỏ bọc” trong khi Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng: “đóng vai chồng hờ trong những trường hợp đặc biệt để che giấu hành tung“.

2) Ngoài chi tiết về đôi tai khác thường của chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể vận dụng chi tiết về đột biến gène thể chất - sinh thực khí - sinh dục của 3 chị em ruột (bà Thanh, ông Khiêm, ông Cung [Hồ Chí Minh]) mà Trần Xuân An đã nêu ra để xác minh Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chí Minh sau này, chứ không thể là người Tàu giả dạng như ông Hồ Tuấn Hùng (Đài Loan) viết.

Trần Xuân An trả lời:

Cảm ơn ông Đối Kính.

Cũng xin lưu ý giúp: Trần Xuân An (WebTgTXA.) chỉ đưa ra những dữ liệu được xem là xác thực nhất, và trên cơ sở đó, góp phần lí giải vấn đề nêu trên. Vấn nạn này về nhân vật lịch sử - anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh không phải là chuyên đề nghiên cứu sâu của Trần Xuân An.

Mong ông Đối Kính (TP.HCM.) đóng góp thêm.

Trân trọng & thân ái,

TXA. (WebTgTXA.)

08: 40, 01-01 HB9 (2009) [06-12 Mậu tí HB8-9]

Tái bút: Thân kính mời ông Đối Kính đọc lại bài thơ Trần Xuân An (Trần Nguyễn Phan) viết từ 1977, trong và sau chuyến cùng bạn bè lớp sinh viên Ngữ văn 1974-1978 ĐHSP. Huế ra sinh hoạt tại ĐHSP. Vinh và tham quan Vinh - Nghệ An - Hà Tĩnh. Xin nói thêm: Chính trong dịp về tham quan Làng Sen (quê nội Bác Hồ), tôi có đặt câu hỏi cho người phụ trách quản lí Nhà lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh, khi ông ấy trực tiếp thuyết minh, và được biết là 3 chị em Bác Hồ đều không vợ, không chồng, không có con cháu ruột. Một điều khác nữa: tư duy nghiên cứu cần lạnh lùng, khách quan; tư duy thơ ca lại hòa lẫn với cảm xúc cá nhân, cảm xúc thẩm mĩ truyền thống - trữ tình công dân… Tôi không phủ nhận đề xuất sửa đổi sách giáo khoa văn và sử, đồng thời cũng không phủ nhận bài thơ này:

MÁI TRANH

Dưới hai hàng cây xanh

tôi về thăm quê Bác

nắng dọc đường đi êm ả hiền lành

hiện dần trong tôi nho nhỏ mái nhà tranh

tôi đã thấy qua thơ qua tiếng hát

(khúc ca nào lắng sâu hóa nỗi niềm riêng)

tôi đã thấy qua bao xóm làng

quê hương thân thuộc

một nếp tranh vàng rất đỗi dân gian

dưới bóng tre xanh, xanh tự ngàn năm

lần đầu tiên ra thăm

sao như trở lại lòng mình!

*

Ngõ nè chống cao, vạt lúa, đất phèn

hàng giậu xanh non dẫn vào nhà Ngoại

nếp nhà tranh lùi lại cuối góc vườn

ôi tiếng khóc sơ sinh của Bác Hồ cất lên ở đấy

mảnh sân con tuổi thơ Người chật chội

bước chập chững vin vào khung cửi

giữa tiếng ngâm thơ và tiếng xa quay

dĩa đèn dầu dập dềnh bóng tối

khát vọng trăm miền nặng tiếng à ơi

nói tiếng đầu tiên

khi ánh đuốc nghĩa quân Cần vương rực cháy…

nên Đất nước đau thương từ đấy có Người!

*

Đứng lên! Đồng bào ơi! -

ngân vang gió suốt chiều dài Đất nước

ai hát trên rừng xưa, bây giờ tôi hát

bỗng thấy cả vòm trời bao la

dưới mái tranh nghèo

hiểu khung vải dệt thời gian

dệt tiếng ru

trĩu nặng

hóa cờ bay phấp phới cả trời sao

từ dĩa đèn dầu hắt hiu ấu thơ Người đó

đến hừng đông cho bao dân tộc tôi đòi

từ mái tranh nho nhỏ

Bác Hồ ơi…

*

“Miền Nam trong trái tim tôi”

Miền Nam ơi

nỗi khổ mỗi người

nỗi khổ mỗi nhà

thành nỗi đau trĩu nặng lòng ai

nỗi cháy bỏng nhớ thương về Huế

cả Phan Thiết, Sài Gòn và trăm nơi trái tim Người ấp ủ…

tuổi trẻ Người đi qua dưới cơn mưa nô lệ

chưa nắng đủ lòng vui, mưa Miền Nam đã ướt lại áo Người

rồi cơn đau cuối đời! Bác không về được nữa

Di chúc vẫn lên đường, phấp phới nắng trăm nơi

*

Con đường Bác đi từ mái tranh nho nhỏ

nơi dừng lại bao la là giữa loài người

con đường Việt Nam từ bùn đen loang máu

đã bừng lên rạng rỡ đóa sen tươi

mái tranh nho nhỏ

trở thành nơi hội tụ lòng người

*

Tôi về thăm

gặp cả vòm trời

thu lại rất sâu trong từng đôi mắt

ánh mắt nào cũng chan chứa yêu thương

sáng lên từ Bác -

nhân hậu mênh mang sâu thẳm ngàn năm

tôi về thăm

mái tranh vàng sắc nắng dân gian

bóng tre tỏa hòa bình yêu thương lên mặt đất

và ai rưng nước mắt

thấm nụ cười ấm áp sâu xa

khúc ca nào vọng về thầm lặng ngân nga…

tôi cảm nhận Cõi Người

qua hồn tổ tiên, Đất nước

dưới vòm trời xanh bao la

xanh sắc Quê nhà…

TRẦN XUÂN AN

(Vinh - Huế, một chín bảy bảy [1977])

17.              

January 7, 2009 at 6:54 am

ĐỘNG NÃO TRƯỚC VẤN ĐỀ

Ích gì cho văn học ?

Nguồn: Báo Phụ Nữ TP.HCM

Nơi đăng lại: Trung tâm Văn hóa Hội Nhà văn Việt Nam, thứ bảy, 03.01.2009, 09:04pm (GMT+7)

Lê Văn Nghệ

Nghĩ về trường hợp Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên viết: “Cho dù Hàn Mặc Tử có cuộc đời bệnh tật, cuộc đời tình duyên, cuộc đời cách mạng ly kỳ, dữ dội gấp trăm lần, nhưng ba hòn núi cao ấy chụm lại không đẻ ra được một cái cây, một bóng mát thơ nào, ba trái núi ấy không đẻ ra con chuột nhắt thơ nào, thì việc gì ta phải dông dài”. Theo ông, đánh giá về sự nghiệp văn học của một tác giả không nên dựa vào những điều vặt vãnh ngoài đời của nhà thơ đó, mà phải căn cứ vào tác phẩm. Điều này hoàn toàn đúng.

Thế nhưng, gần đây trong nhiều bài “nghiên cứu” về một tác giả nào đó, dù đã khuất, không ít người đã “vận dụng” các chi tiết chẳng liên quan gì đến sáng tác văn học. Tưởng rằng làm như thế diện mạo nhà thơ đó sẽ rõ nét hơn, sẽ đời thường hơn, nhưng vô hình trung lại làm méo mó chân dung của họ.

Mới đây nhất, trong tạp chí Nhà văn của Hội Nhà văn VN ( tháng 12/2008 ) có bài của tác giả Đỗ Hoàng viết về “Nhà thơ của một thời tuyến lửa” - vừa từ trần tại TP.HCM. Không rõ dựa vào đâu, tác giả cho rằng sinh thời, nhà thơ này luôn… hục hặc với vợ, bị vợ khinh thường vì mình quá nghèo, thậm chí bố vợ “cũng khinh ra mặt”. Đem chuyện riêng tư, rất riêng tư của gia đình người ta ra “tám” là không được rồi, huống gì theo ông Đỗ Hoàng thì có lần nhà thơ này “chê vợ mình trước mặt bố đẻ: Tôi lấy phải con đi bán cá dạo, ngoa ngắt lắm! Nó làm cho tôi mất mặt với bạn bè! Con ông không có tâm hồn!”. Bố vợ anh đốp lại ngay: Ừ thì con tôi không ra gì, nó là con đi bán cá dạo, nó ngoa ngoắt thật, nó không có tâm hồn, nhưng nó có tôm hầm!” (tr.96). Rồi “Sau này vào Sài Gòn nghe bạn bè kể lại anh cũng đã mấy lần tự tử vì chuyện vợ con” (!?).

Chỉ mới nghe “kể lại” đã viết như thế thì đáng trách thật. Đáng trách cho thói vô trách nhiệm của tác giả, vì ai kiểm chứng đó là sự thật? Chúng tôi biết, lúc nhà thơ này về suối vàng chính vợ con anh đứng ra cáng đáng mọi việc, vậy ông Đỗ Hoàng tung ra những chi tiết ấy nhằm ngụ ý gì? Dù ngụ ý gì cũng là sự xúc phạm đến nhà thơ vừa mất và cả vợ con của anh.

Gần đây cư dân mạng cũng xôn xao với hồi ký của một giáo sư đáng kính. Chuyện sẽ không là gì, nếu không có những chi tiết “nghe hơi nồi chõ”. Rằng, người này “nhận định” thế này về người nọ, người nọ “đánh giá” về nhân vật kia rất “động trời”… Chẳng ai biết hư thực ra sao. Khổ nỗi, những người đó đã khuất thì làm sao họ đội mồ cải chính?

Nghĩ cho cùng, những chuyện “trà dư tửu hậu” ấy có ích gì cho văn học, cho việc nghiên cứu về sự nghiệp của một tác giả? Nhưng gần đây lại rộ lên cái thói “nghiên cứu”, “nhận định” theo kiểu “nghe rằng, có người kể rằng”. Thật chẳng ra làm sao! Việc “tung hỏa mù” vô tội vạ, vô trách nhiệm chỉ làm xấu đi cái nhìn của công chúng về tình hình văn học nói chung và nhân cách của các văn nghệ sĩ mà thôi.

Lê Văn Nghệ

** ** ** ** ** ** **

Xem thêm: GS.TSKH. Lê Ngọc Trà: Biết rung cảm trước cái đẹp sẽ rất khó làm điều xấu – Tuổi Trẻ trực tuyến, Thứ Ba, 06/01/2009, 18:56 (GMT+7)

18.              

January 7, 2009 at 4:35 pm

TRƯỚC KHI KHÉP LẠI VẤN ĐỀ SINH THỰC KHÍ:

Nguyễn Phúc Vĩnh Ba (Huế):

“… Chuyện về Bác Hồ … có lý đấy”…

Đối Kính (TP.HCM.):

“… Trịnh Công Sơn cũng là một người đàn ông đầy nam tính, không mắc bệnh đồng tính luyến ái một mảy may, nhưng chắc hẳn đến mười mươi là bất lực (không thực hiện được chức năng) trong quan hệ tình dục. Có khá nhiều nhân chứng còn sống xác nhận công khai trên báo chí về thực trạng đó của nhạc sĩ thiên tài ấy. Nếu Trịnh Công Sơn không là nhạc sĩ, mà làm chính trị hoặc đi tu, anh ấy sẽ tự dập tắt những cảm xúc tình yêu nam nữ trong mộng tưởng (vì vô vọng, vô ích) và xa lánh những người con gái chỉ là nàng thơ thuần túy cho cảm hứng âm nhạc (vì thực chất sinh thực khí của Trịnh Công Sơn không cho phép anh ấy phàm tục như những người bình thường khác; vì chỉ chuốc lấy điều tiếng một cách vô duyên, vô lối). Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng không nỡ như dũng tướng Lê Văn Duyệt, cưới vợ chỉ để làm người nâng khăn sửa túi chứ không chung chăn gối. Vả lại phụ nữ thời Lê Văn Duyệt khác với thời Trịnh Công Sơn, có lẽ không có cô nào chịu lâm vào cảnh suốt đời như vợ dũng tướng Lê Văn Duyệt, sau khi vỡ mộng”…

Một độc giả:

“… Xin khép lại vấn đề sinh thực khí – sinh dục – tình dục”…

WebTgTXA.:

Các bước của nghiên cứu khoa học:

1) Bước 1: bằng trực giác, phát hiện vấn đề;

2) Bước 2: suy luận trên các dữ kiện có sẵn trong tay, có thể đưa ra kết luận tạm thời;

3) Bước 3: chứng minh bằng các tài liệu đã được giám định bằng khoa học thực nghiệm;

4) Bước 4: kết luận đã kiểm chứng.

Nếu không thực hiện đầy đủ các bước ấy, thì chỉ là phỏng đoán có lí hay giả thuyết mà thôi.

Ai có điều kiện nghiên cứu khoa học về vấn nạn sử học như các khung blog trên đã đề cập, xin tiếp tục. Không nên để lại những dấu hỏi cho hậu thế.

WebTgTXA. xin đóng lại vấn đề này.

06 – 08-01 HB9 (2009)

19.              

van-tat-thang said

January 9, 2009 at 12:27 am

Thư của ông Văn Tất Thắng (hải ngoại):

Author: van-tat-thang (IP: 84.179.211.40 , p54B3D328.dip.t-dialin.net)

E-mail : vanvantatthang @ yahoo . com

Thứ Năm, 8 tháng 1, 2009 09:27

Người gửi: vanvantatthang @ yahoo . com

Người gửi này đã có xác minh DomainKey

Trung chuyển: “donotreply @ wordpress . com” donotreply @ wordpress . com

Không phải dễ dàng mà những thông tin liên quan đến nhiều sự kiện quan trọng, những nhân vật cũng quan trọng không kém dưới ngòi bút của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh được tung lên mạng. Theo tôi nó được ấp ủ rất lâu và qua từng thời kỳ nạp vào bộ nhớ của ông [ấy]. Có phải [GS. Mạnh] quá uất ức, quá thất vọng về những con người cụ thể mà có một thời, một lúc nào đó mình đã nghĩ tốt về họ? Tôi là độc giả định cư tại nước ngoài, nhiều lúc tự hỏi GS [ấy] viết hồi ký định chuyển tải [tới] đối tượng chính là ai? Và ấp ủ lâu quá như vậy thì men đã đủ say? Với tôi chẳng có gì xa lạ bởi mọi điều như vậy đã sẵn có trong cuộc sống này rồi.

Nguyên văn:

(( khong phai de dang ma nhung thong tin lien quan den nhieu su kien quan trong,nhung nhan vat cung quan trong khong kem duoi ngoi but cua giao su nguyen dang manh duoc tung len mang.theo toi no duoc ap u rat lau va qua tung thoi ky nap vao bo nho cua ong.co phai qua uat uc, qua that vong ve nhung nguoi / con cu the ma co mot thoi,mot luc nao do minh da nghi tot ve ho? toi la doc gia dinh cu tai nuoc ngoai,nhieu luc tu hoi gs viet hoi ky dinh chuyen tai doi tuong chinh la ai? va ap u lau qua nhu vay thi men da du say?voi toi chang co gi xa la boi moi dieu nhu vay da san co trong cuoc song nay roi. ))

WebTgTXA.:

Trước hết, xin cảm ơn ông đã ghé đọc WebTgTXA..

Về những điều ông nêu ra bằng những câu hỏi, xin ông vui lòng xem lại những khung blog trên trang web thuộc đề mục này. Và trong các trang thuộc WegTgTXA. còn có cả những đề nghị, những bài viết giải tỏa những nỗi niềm, những nhận thức có tính chất cá nhân nhưng đồng thời vẫn thuộc tầm mức, quy mô toàn xã hội (về sử học, văn học, về chính trị - xã hội…), trước đây bị bị câm nín, không được tỏ bày.

Thưa ông, theo thiển ý của WebTgTXA., điều quan trọng nhất và thiết thực nhất cho việc hòa giải là sửa chữa sách giáo khoa về văn và sử, chứ không phải chỉ là những phần tệ hại, khuyết tật hoặc bị bôi nhọ, bị đơm đặt của cá nhân một số nhà văn chương trong “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh”. Nó chỉ là một phần nhỏ thuộc đối tượng của một phân ngành nghiên cứu văn học, gọi là nghiên cứu con người nhà văn và loại hình lao động văn chương. Nói là “một phần nhỏ” vì đối tượng nghiên cứu phải được khảo sát toàn diện (còn mặt ưu điểm nữa), và phải thấy được trong lao động văn chương sự tương tác, khúc xạ, biến hóa của giữa đời thực và thế giới nội tâm, vô thức lẫn hữu thức (không thể máy móc, thô thiển). Cũng xin lưu ý là cách thức ghi chép tư liệu trong nghiên cứu như thế là chưa ổn… Còn viết hồi kí để moi móc (hoặc chỉ “nghe nói” mà viết lại) chuyện đời tư người khác nhằm trả thù những gì đã chịu đựng trong quá khứ, trả thù những con người bị buộc phải ca ngợi thì quá tiểu tâm, tiểu khí. Đó là theo một số người; còn ông, ông viết: “Có phải [GS. Mạnh] quá uất ức, quá thất vọng về những con người cụ thể mà có một thời, một lúc nào đó mình đã nghĩ tốt về họ?”. Nếu như thế, để rồi trả thù như vậy thì cũng tiểu tâm, tiểu khí thôi, thưa ông. Tuy nhiên, tôi chỉ nghĩ “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” chỉ mới là bản thảo sơ khởi, bị ai đó cướp đoạt tung lên mạng, hay đó là “quả bóng thăm dò dư luận” do GS. Nguyễn Đăng Mạnh tung ra, trước khi hoàn chỉnh bản thảo, chính thức xuất bản. Và biết đâu, đó chỉ là một thủ đoạn chính trị mà GS. Nguyễn Đăng Mạnh bị đẩy vào, ông ấy cũng không ngờ (làm sao GS. Nguyễn Đăng Mạnh kiểm soát hết những bản vi tính trên hàng ngàn điểm mạng!).

Vấn đề lớn hơn là những sự kiện lớn thuộc giai đoạn lịch sử đã qua được đề cập trong hồi kí ấy, thật ra chúng cũng thuộc vấn đề văn học sử và sử học hiện đại (1930-1945, 1945-1954, 1954-1975, 1975-1986…).

Kính mời ông để tâm xoáy sâu vào đề mục sửa chữa sách giáo khoa văn và sử theo link dưới đây:

http://txawriter.wordpress.com/2008/12/02/dukien-suadoi-sachgk/

Sửa chữa sách giáo khoa văn và sử một cách thực sự mới khỏi bị rơi vào sự hòa giải, hòa hợp ảo. Trần Xuân An đã có một bài viết trên BBCVietnamese về ý tưởng đó.

Link BBCVietnamese - bấm vào đây

Link WebTgTXA. - bấm vào đây

Mong chờ sự đóng góp ý kiến hoặc bài viết của ông. Xin ông vui lòng gửi một lúc đến nhiều địa chỉ khác nhau, mời nhiều bạn bè cùng tham dự, để tránh những sự cố thuộc mạng vi tính toàn cầu rất đáng tiếc.

Cũng xin ông lưu ý giúp: Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã qua đời. Mặc dù ông có vài ý tưởng của ông Võ Văn Kiệt vẫn không được hợp khoa học lắm, nhưng cơ bản là rất tốt. Không có người ủng hộ có uy thế như ông Võ Văn Kiệt, những người kế tục ý hướng tán thành đề xuất sửa đổi sách giáo khoa văn và sử không biết có còn chịu áp lực nào không về phía chính quyền? Nhưng, áp lực nặng nề nhất, tinh vi nhất chính là phía Giáo hội Thiên Chúa giáo (tại Vatican và tại Việt Nam…) và trở ngại lớn lao, gay go nhất cũng là những giáo dân Thiên Chúa giáo Việt Nam trong nước, ngoài nước…

Một điều nữa: Xin bình tâm. Hiện nay chúng tôi ở trong nước vẫn bình tâm “chấp hành sách giáo khoa hiện hành như là pháp lệnh”. Ai đó, thế lực nào đó đừng đẩy một số học sinh, sinh viên, giáo viên Miền Nam ra khỏi nhà trường.

Trân trọng và cảm ơn,

WebTgTXA.

16:40, 10-01 HB9 ( 2009 )

Tái bút: Nhân đây cũng xin hỏi ông, không biết “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” đã được xuất bản với dạng in giấy ở một nhà xuất bản hợp pháp, có uy tín nào đó ở nước ngoài hay chưa? Nếu có, xin ông vui lòng gửi cho tôi một cuốn ấn bản. Có ấn bản chính thức như thế thì mới bàn luận có cơ sở và không uổng thì giờ, thưa ông.

TÁI BÚT: TỐT NHẤT, ÔNG VUI LÒNG MỞ MỘT WEB-BLOG, ĐƯA BÀI VIẾT CỦA ÔNG VÀ CÁC THỨC GIẢ HẢI NGOẠI LÊN ĐÓ, ĐỂ TRÁNH NHỮNG PHIỀN TOÁI. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN LÀ “SỬA CHỮA SÁCH GIÁO KHOA VĂN & SỬ”, CHỨ KHÔNG PHẢI “HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH”. WEBTGTXA. VÀ BẠN BÈ CỦA WEBTGTXA. Ở TRONG NƯỚC SẼ HÂN HẠNH ĐƯỢC XEM.

Viết thêm: 20:40, 10-01 HB9 ( 2009 )

20.              

January 11, 2009 at 8:00 am

XIN KHẲNG ĐỊNH ĐỂ TRÁNH NHỮNG NGỘ NHẬN ĐÁNG TIẾC VỀ WEB.TG.TXA. VÀ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA THẢO LUẬN:

ĐỀ MỤC NÀY ĐƯỢC MỞ RA CHỈ NHẰM MỤC ĐÍCH THANH MINH CHO NHÀ THƠ HỒ CHÍ MINH (ĐỒNG THỜI LÀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ - ANH HÙNG DÂN TỘC), QUA VIỆC WEB.TG.TXA. ĐƯA RA MỘT CÁCH LÍ GIẢI TRÊN CƠ SỞ CÁC DỮ LIỆU XÁC THỰC, NHƯNG CHƯA ĐẦY ĐỦ, NHẤT LÀ THIẾU NHỮNG TƯ LIỆU ĐÃ ĐƯỢC GIÁM ĐỊNH KHOA HỌC THỰC NGHIỆM.

ĐỀ MỤC BÀN LUẬN VỀ “HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH” TRÊN WEB.TG.TXA. (TXAWRITER/WORDPRESS) ĐÃ ĐƯỢC ĐÓNG LẠI Ở ĐÂY.

WEBTGTXA. (TRẦN XUÂN AN)

07:40, 11-01 HB9 ( 2009 )

21.              

January 12, 2009 at 4:17 pm

Thư của độc giả Đối Kính (gửi vào ngày 12-01 HB9 [ 2009 ], sau khi đề mục này đã đóng lại từ ngày 11-01 HB9 [ 2009 ]):

1) … Cung cấp tư liệu văn bản: Văn bản lá thư Bác Hồ gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng chắc vẫn còn đươc lưu trữ và rất thuận lợi để giám định khoa học thực nghiệm lá thư ấy (bản thủ bút hoặc bản đánh máy bằng bàn máy đánh chữ của Bác Hồ mà Bác vẫn thường dùng). Đây là một văn bản thuộc loại tư liệu gốc, có giá trị khả tín cao nhất. Nhưng rất đáng tiếc là chúng ta chỉ được biết qua lời dẫn như sau:

“Cuộc đời Bác còn có gì đặc biệt? Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng (*), Bác đã tự nhận là người không có gia đình và không có con nhưng “gia đình tôi là Việt Nam, con cái tôi là các thanh niên Việt Nam”” (**).

Nguồn: http : // hodovietnam . vn / index. php? option= com_ content & task= view&id= 474& Ite mid= 30

(*) Bác sĩ Vũ Đình Tụng là bộ trưởng Bộ Thương binh – Cựu binh (khoảng 1955).

(**) Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:

“Nơi đây sống một người tóc bạc

Người không con mà có triệu con

Nhân dân ta gọi Người là Bác

Cả đời Người là của nước non”

(Quê hương Việt Bắc - 1950)

2) Tư liệu dân gian, sấm kí (không thuộc loại sử liệu có giá trị khả tín cao) rất phổ biến ở Nghệ An và trên toàn quốc:

“Đụn Sơn phân giái (*)

Bò Đái thất thanh

Thủy đáo Lam Thành (**)

Nam Đàn sinh Thánh”

(dịch nghĩa:

Núi Đụn nứt hai [: chia ranh giới]

Bò Đái mất tiếng

Nước lụt đến Lam Thành

Nam Đàn sinh ra thánh nhân).

(*) Phân giái (dị âm: phân giới; dị bản: phân giải). Chữ giới có âm khác là giái, giái hợp vần với chữ đái ở câu dưới hơn. “Phân giải”, nghĩa đen là tách ra, nhưng trong Hán văn cũng như trong tiếng Việt đều dùng với nghĩa là phân trần, giải thích, hòa giải; riêng trong ngành hóa học, dùng với nghĩa phân tích, hóa phân (Đào Duy Anh, “Từ điển Hán - Việt”, Nxb. KHXH. tái bản, 2001, tr. 105). “Thất thanh” (trong tiếng Việt) còn có nghĩa là tiếng kêu thảng thốt, kinh ngạc, đến mức kêu không thành tiếng.

(**) Lam Thành là tên khác của núi Hùng Sơn. Nhiều dị bản không có câu thứ 3 này, nhưng theo tôi, câu thứ 3 này vừa hợp với thể thơ (4 câu) vừa miêu tả thêm về lưu lượng và dung lượng của nguồn nước phi thường.

(*) & (**) Biểu tượng âm dương, sông núi; dùng hình tượng núi non, suối khe để miêu tả sinh thực khí (linh vật linga, yoni; nõn [nõ], nường) của trời đất. Địa danh “Bò Đái” (chữ Nôm) lại là cách so sánh ngầm (ẩn dụ) có tính cụ tượng, trực quan sinh động. Trong ngữ cảnh này, người đọc nhận ra hình tượng Bò thần Nandin [Nandi], biểu tượng của thần Hủy diệt và Sáng tạo Shiva (Isana): quyền lực và sinh nở, trong tôn giáo Bà La Môn (tiền thân của tôn giáo Hindu [Ấn Độ giáo]). Cả cụm hình tượng ở 3 câu 1, 2 và 3 vừa thể hiện sự thiêng liêng (thánh hóa) vừa cho người đọc cảm nhận trần tục (thậm chí vật hóa), để đi đến câu kết (câu 4), thể hiện hiện tượng siêu phàm: “Nam Đàn sinh Thánh” — thánh nhân thường được hiểu là thuần khiết tuyệt đối (không vợ không chồng). Đây là một cách tôn vinh theo phong cách sấm kí, ngôn ngữ dân dã. Nếu không chấp nhận cách giải mã nghệ thuật này, sẽ không hiểu vì sao lại sử dụng địa danh “Bò Đái” trong khi nó có tên khác trang nhã hơn: Vũ Nguyên; và cả câu 2 có thể là: “Nguồn Vũ” thất thanh hay Vũ bộc thất thanh (cả câu 1, câu 2: “Hùng Sơn [Hùng Lĩnh?] phân cốc, Vũ bộc thất thanh” [Núi Hùng chia hang, thác Vũ mất tiếng"]). “Bò Đái” rõ ràng có chức năng nghê thuật là một nhãn từ (nhãn tự: mắt chữ)! Xin nhớ là “Đại Nam nhất thống chí” đã ghi rõ là suối Vũ Nguyên còn có tên thường gọi là khe Bò Đái và “Ngạn ngữ có câu: “Bò Đái thất thanh’” (Quốc sử quán triều Nguyễn, ĐNNTC., tập 2, bản dịch Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 171). Đó là một câu không phải thuộc loại đã bị thay đổi, sửa chữa.

Ngoài ra, việc không dùng địa danh Hùng Sơn (hay Hùng Lĩnh?) mà dùng địa danh núi Đụn (đụn thóc, gạo…: quân lương thời Mai Hắc Đế [gốc Chăm?]), trong ngữ cảnh nhất định này, còn gợi cho người đọc ý niệm ước muốn phồn thực, với nghĩa cụ thể là thực phẩm dồi dào (không chỉ sinh con đẻ cháu đông đúc mà còn no ấm).

Thánh nhân (thuần khiết) ra đời từ ước vọng ấm no, hạnh phúc, sum vầy. Phải là bậc thánh nhân (thuần khiết) như thế mới cứu được đất nước, lo được cho nhân dân như ước vọng ấy. Phải chăng đó là ý tưởng xuyên suốt và bao trùm bài tứ tuyệt tứ ngôn sâm kí dân dã trên (vốn xuất hiện vài ba trăm năm trước đây)?

Là con người, cho dù là Phật, Chúa, Tiên, Thánh, tất cả đều được sinh ra từ sinh thực khí (linga [nõn / nõ] - yoni [nường], riêng yoni [nường] bao gồm cả hai bầu sữa của người mẹ). Vì vậy, khi thánh thiêng hóa, vật thiêng hóa sinh thực khí, đồng nhất hóa sinh thực khí với núi non, sông suối quê hương, là đã tôn vinh, tôn vinh trong niềm ước vọng, về một Thánh nhân sẽ ra đời, cứu dân, cứu nước hay tế độ chúng sinh.

Điểm cuối, xin minh định rằng, nguyên văn bài sấm kí dân dã trên đúng y như thế. Chính vì sững sờ bởi địa danh “Bò Đái”, được dùng như nhãn từ, nên tôi thử đưa ra một cách giải mã dựa trên tín ngưỡng tôn thờ sinh thực khí thánh thiêng hóa của người Chăm (theo đạo Bà La Môn [Hindu, Ấn Độ]) và ở nhiều vùng khác tại Bắc Bộ, Trung Bộ nước ta (hiện vẫn còn tín ngưỡng nõn nường thánh thiêng hóa hoặc đang ảnh hưởng như một nếp văn hóa vô thức). Đây chỉ là một cách giải mã thử nghiệm, nếu có gì sơ suất, xin niệm tình lượng thứ.

– Trần Xuân An –

Theo báo điện tử Vĩnh Phúc: “Núi Đụn chính là núi Hùng Sơn ở phía tây huyện Nam Đàn. Năm 722, Mai Thúc Loan (tức là vua Mai Hắc Đế) xây dựng kho quân lương ở trên núi để chống giặc Đường nên gọi là Núi Đụn. Khe Bò Đái (tên gọi trong dân gian) chảy từ vách đá dựng đứng ở Rú Kia (còn gọi là Cơ Sơn) nước chảy ồ ồ và tung bọt trắng xóa. Trong một trận động đất, núi Đụn bị phân đôi, khe Bò Đái cũng bị rạn nứt, nước chảy nhưng bị thẩm thấu lan toả nhiều vào lòng đất đá nên không phát ra tiếng ồ ồ như trước”

(nguồn: Mai Hiên, xem bên dưới).

Trích thêm từ báo điện tử Vĩnh Phúc: “Theo thuyết phong thuỷ trong dân gian ở vùng Nam Đàn vẫn truyền tụng câu: “Bạch tượng uyển hồ, Hồ trung nhất huyệt, nhất đại đế vương” (nghĩa là ở trên con voi trắng trong xứ Ao Hồ có một huyệt đạo, phát làm vua một đời)”.

(tác giả Mai Hiên, bài “Lịch sử và huyền thoại mộ bà Hoàng Thị Loan”, 07:41:13, 15/05/2008 )

Theo “Đại Nam nhất thống chí” (tập 2, sđd.), ở Nghệ An có một gò đất gọi là Gò Hồ. Phải chăng Uyển Hồ chính là Gò Hồ này? Uyển, theo chữ Hán, là khu vườn hoặc là nơi có cây cối xanh tốt; Uyển Hồ là địa danh theo kết cấu tiếng Việt, như Thành Vinh, Thành Hà Nội, Thành Huế? Không phải “uyên”: vực sâu; Uyên Hồ (kết cấu theo Hán ngữ): xứ Hồ có vực sâu?

Nhưng điều cần chú ý hơn là câu cuối: “Nhất đại đế vương”. Theo ngữ nghĩa, câu nói theo thuyết phong thủy này không nhằm nói đến chế độ dân chủ (không theo lệ phong kiến cha truyền, con nối). Chắc hẳn câu sấm chỉ nói đến vị thánh thuần khiết (không vợ con) của Nam Đàn: Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thật ra, như bài báo “Lời Sấm đất Nam Đàn” trên Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An (xem bên dưới), câu thứ 4 của bài sấm là “Song Ngư thủy biển (:thiển)”, về sau được các nhà nho cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sửa lại là “Nam Đàn sinh Thánh”.

Theo đó, chúng ta có thể thấy rằng, cả bài sấm đã được phân tích ở trên và câu nói theo thuyết phong thủy vừa bàn đến, đều nhắm đến Nguyễn Ái Quốc (chủ tịch Hồ Chí Minh về sau). Ngay Phan Bội Châu cũng nghĩ như vậy.

Thực ra, tôi không bao giờ mê tín vào loại sấm kí, phong thủy ở góc độ huyền bí. Nếu thuật phong thủy vẫn còn có giá trị là ở phương diện thẩm mĩ, nó có thể giúp ta chọn được cuộc đất đẹp, thì sấm kí còn có giá trị chăng là ở chỗ phán đoán được xu thế thời đại, gồm xu thế chính trị, kinh tế, quân sự, mà thường một người ưu thời mẫn thế có thể tổng hợp thông tin, đưa ra lời ước đoán khá chính xác (tuyệt nhiên không có chút nào huyền bí trong đó). Trong trường hợp bài sấm cũng như câu nói theo thuyết phong thủy trên, chúng ta còn rút ra được một lượng thông tin là sự ghi nhận thực tại nhãn tiền chứa đựng trong chúng nữa. Nói giản đơn hơn, người ta thấy Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thuần khiết (không vợ không con), lại đổi thành họ Hồ như vậy (sự thực là vì lí do chính trị và vì nhớ ơn Hầu Chí Minh), nên người ta sửa chữa sấm kí, câu nói theo thuyết phong thủy lại cho phù hợp. Thế thôi.

Ở đề mục này, tôi muốn khai thác bài sấm kí và câu nói theo thuyết phong thủy trên về phương diện ghi nhận sự thật về Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh theo cách sửa chữa câu chữ cho phù hợp như vừa trình bày.

– Trần Xuân An –

=*===*===*===*===*===*===*===*===*===*===*=

Nguyên văn bài viết của Mai Hiên:

đăng trên báo điện tử Vĩnh Phúc:

http : // baovinhphuc . com . vn / front-end / index. Php ?type= ARTICLE & fuseaction = DISPLAY_ SINGLE_ ARTICLE & article_ id= 6790& website_id =1&channe l_id= 401 & parent_ channel _id= 412 & hide_ channel =0

Mục Văn hoá - Văn nghệ

Lịch sử và huyền thoại mộ bà Hoàng Thị Loan

Mai Hiên

07:41:13, 15/05/2008

Ở phía tây bắc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An có con đường mang tên Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ Bác Hồ) rộng 4 làn xe nối liền quốc lộ 46 hướng về quê Bác. Đi được 12km là đến địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn. Ở đây có một con đường nhựa rẽ tay phải về phía bắc 4km sẽ gặp núi Động Tranh thuộc dãy Đại Huệ là nơi đặt mộ bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Bác Hồ.

Bà Hoàng Thị Loan sinh năm 1868, là con gái đầu lòng của ông bà Hoàng Đường - Nguyễn Thị Kép tại làng Chùa, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, ngày nay gọi là làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Năm 15 tuổi (1883) bà kết hôn với ông Nguyễn Sinh Sắc (sinh năm 1863) quê ở làng Sen, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, năm 15 tuổi (1878 ) được ông Hoàng Đường đưa về dạy cho học và khi cưới xong thì làm cho một ngôi nhà tranh 3 gian cạnh nhà mình. Năm 1884 bà sinh con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh. Năm 1888, bà sinh con trai cả là Nguyễn Sinh Khiêm và năm 1890 bà sinh ra Nguyễn Sinh Cung (tức là Chủ tịch Hồ Chí Minh). Năm 1893 bà phải chịu một cái tang lớn: Ông Hoàng Đường qua đời. Năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc thi đậu cử nhân ở trường Nghệ. Năm 1895, bà để con gái Nguyễn Thị Thanh (11 tuổi) cho mẹ già rồi cùng hai con trai là Khiêm và Cung theo chồng vào Kinh đô Huế tiếp tục làm nghề dệt vải nuôi con và nuôi chồng ăn học ba năm tại Trường Quốc Tử Giám (1895 - 1898 ). Năm 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc đưa theo cậu Khiêm đi làm thư ký khoa thi Hương ở Thanh Hóa. Lúc đó tại Huế, bà ở cùng cậu Cung và sinh thêm một người con trai đặt tên là Nguyễn Sinh Xin (tên chữ là Nhuận). Sau khi bé Xin ra đời, bà bị lâm bệnh nặng và đột ngột qua đời vào trưa ngày 10-2-1901 khi cậu Cung đang đi mua cơm cháo về cho mẹ.

Trưa về mới đến trước sân

Nghe em khóc thét, cậu băng chạy vào

Bò trên ngực mẹ em gào

Miệng day vú mẹ, sữa nào còn đâu

Im lìm mẹ mất từ lâu

Vào hồi gióng giả trống lầu điểm trưa.

(“Đi giữa một mùa sen” thơ Thanh Tịnh)

Thi hài bà Loan được những người láng giềng đưa qua cổng Thanh Long vượt sông Gia Hội lên táng ở chân núi Ba Tầng.

Sau tết Tân Sửu (1901), ông Nguyễn Sinh Sắc nhận được tin đau đớn đó liền vội vàng trở vào Huế cảm ơn bà con lao động láng giềng đã mai táng vợ chu toàn và đến bên mộ thắp hương vái lạy linh hồn vợ rồi cùng cậu Cung bồng bế Xin về quê ngoại Hoàng Trù. Mấy tháng sau, kỳ thi Hội đang đến, ông Sắc gửi 4 con lại cho mẹ vợ là bà Nguyễn Thị Kép để vào Huế dự thi. Kết quả ông đã giành được học vị Phó bảng và trong lễ xướng danh được vua Thành Thái tặng biển “Ân tứ ninh gia” (ơn ban cho gia đình tốt)…

*

**

Năm 1922, cô Nguyễn Thị Thanh (đang bị bọn thống trị quản lý ở Huế) đã tìm mọi cơ hội và bí mật lấy hài cốt của mẹ dùng nước thơm rửa sạch, gói bằng lụa quý cho vào một cái túi đẹp giống như hành lý người đi đường. Với cảnh “thân gái dặm trường” vừa đi vừa nghỉ, khoảng nửa tháng mới về đến quê nhà. Hài cốt bà Hoàng Thị Loan được yên vị trong khu vườn ở quê nội làng Sen.

Chuyện dân gian lưu truyền ở xứ Nghệ có câu sấm: “Đụn Sơn phân giới - Bò Đái thất thanh - Nam Đàn sinh thánh” (nghĩa là: Núi Đụn nứt làm đôi - khe Bò Đái mất tiếng - ở Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân).

Núi Đụn chính là núi Hùng Sơn ở phía tây huyện Nam Đàn. Năm 722, Mai Thúc Loan (tức là vua Mai Hắc Đế) xây dựng kho quân lương ở trên núi để chống giặc Đường nên gọi là Núi Đụn. Khe Bò Đái (tên gọi trong dân gian) chảy từ vách đá dựng đứng ở Rú Kia (còn gọi là Cơ Sơn) nước chảy ồ ồ và tung bọt trắng xóa. Trong một trận động đất, núi Đụn bị phân đôi, khe Bò Đái cũng bị rạn nứt, nước chảy nhưng bị thẩm thấu lan toả nhiều vào lòng đất đá nên không phát ra tiếng ồ ồ như trước. Theo thuyết phong thuỷ trong dân gian ở vùng Nam Đàn vẫn truyền tụng câu: “Bạch tượng uyển hồ, Hồ trung nhất huyệt, nhất đại đế vương” (nghĩa là ở trên con voi trắng trong xứ Ao Hồ có một huyệt đạo, phát làm vua một đời). Câu ca phong thuỷ ấy được huyền thoại như sau: “Ở xứ Ao Hồ, có một huyệt đất, phát một con người, đế chẳng phải đế, vương chẳng phải vương, đi khắp tứ phương, về đứng đầu thiên hạ”. Trong vùng đó có hàng chục dòng họ muốn con cháu được làm vua nên đã đưa hài cốt tổ tiên lên táng ở thung lũng Ao Hồ. Có người còn cắm lều trại ngủ trong đó cầu khẩn thổ thần chỉ cho huyệt đất đó nhưng thổ thần ứng mộng báo cho biết sẽ dành cho họ khác nên phải quay về.

Tháng 8/1941, Nguyễn Sinh Khiêm thoát khỏi nhà tù đế quốc đã đi khắp các dãy núi thuộc hai huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên tìm nơi cát táng mẹ. Cuối cùng ông quyết định chọn mỏm núi Động Tranh thấp là nơi hội tụ đủ các tiêu chí về linh địa làm huyệt đạo. Tháng 3/1942, ông dẫn hai người cháu thân tín lên sườn núi Động Tranh thấp đào 9 cái huyệt ở những nơi ông đã đánh dấu. Ông dặn là khi đào xuống gặp phải hòn đó lớn thì dừng lại. Một đêm khuya ông bí mật mang hài cốt mẹ từ vườn nhà làng Sen đến Động Tranh thấp thắp hương khấn vái xin phép thổ thần xứ Ao Hồ rồi đặt hài cốt mẹ vào một cái huyệt và lấp lại. Sau đó ông tiếp tục lấp bằng phẳng số huyệt đã đào. Vì vậy mọi người, kể cả hai người cháu thân tín cũng không biết ông táng mẹ ở đâu.

Ngày chủ nhật 27/10/1946, bà Nguyễn Thị Thanh ra Hà Nội gặp em trai là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 3/11/1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm cũng ra Hà Nội gặp em. Khi trở về, ông Khiêm dẫn bà con hai họ Nguyễn Sinh và Hoàng Xuân lên núi Động Tranh thấp chỉ cụ thể vị trí ngôi mộ mẹ mà ông đã táng bằng phẳng hồi tháng 3/1942.

*

**

Để trọn tình trọn nghĩa với bà Hoàng Thị Loan, người mẹ kính yêu đã có công sinh thành và dưỡng dục Chủ tịch Hồ Chí Minh thuở thiếu thời, ngày 6/7/1983, Thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh đã ra Nghị quyết số 03-NQ/TU quyết định xây dựng khu mộ bà Hoàng Thị Loan cho khang trang đẹp đẽ. Ngày 19/5/1984, Đảng bộ và quân dân Nghệ Tĩnh, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã làm lễ khởi công xây dựng lại ngôi mộ. Hài cốt bà được giữ nguyên tại chỗ. Ngôi mộ có hình chữ nhật dài 2,5m, rộng 1,4m, cao 1,5m. Quanh mộ được ốp bằng những phiến đá hoa cương Liên Xô (cũ) do Bộ Tư lệnh bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng và những phiến đá cẩm thạch của núi đá Quỳ Hợp do Nghệ - Tĩnh sản xuất. Mộ được phủ kín bằng những hòn đá tự nhiên tại chỗ của núi Đại Huệ. Trên mộ có giàn hoa che mát đồng dạng với giàn hoa tại khu vực nhà sàn của Bác Hồ ở Hà Nội nhưng lại được cách điệu tượng trưng cho chiếc khung dệt vải của bà Hoàng Thị Loan. Phía dưới mộ có tấm bia bằng đá đen núi Nhồi (Thanh Hóa) ghi tiểu sử và công lao của bà. Đường lên thăm mộ men theo sườn núi phía đông dài 500m với 269 bậc đá. Đường xuống cũng dài 500m ở phía tây với 242 bậc đá. Phía bên phải có một con đường bằng bê tông dẫn đến một cái tháp bằng sắt cao 5 tầng ở trên đỉnh núi. Trèo lên tháp nhìn bằng mắt thường có thể thấy quê hương của Mai Thúc Loan, Phan Đình Phùng, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Lý Tự Trọng, Phạm Hồng Thái, Hồ Tùng Mậu và thành phố Vinh, nơi sinh của Nguyễn Thị Minh Khai mà tên tuổi của họ đã đi vào lịch sử của dân tộc.

Đứng trên mộ bà nhìn về phía tây - nam 5km là xã Kim Liên có làng Sen quê nội và làng Hoàng Trù quê ngoại của Bác Hồ. Từng đoàn xe từ thành phố Vinh theo quốc lộ 46 hướng về quê Bác và đến viếng mộ bà Hoàng Thị Loan để thăm quan, nghiên cứu và ngưỡng mộ một người mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục thời ấu thơ của một vĩ nhân mà tư tưởng, đạo đức, lối sống đã sáng chói khắp thế gian.

Mai Hiên

đăng trên báo điện tử Vĩnh Phúc, 07:41:13, 15/05/2008

http : // baovinhphuc . com . vn / front-end / index. Php ?type= ARTICLE & fuseaction = DISPLAY_ SINGLE_ ARTICLE & article_ id= 6790& website_id =1&channe l_id= 401 & parent_ channel _id= 412 & hide_ channel =0

=*===*===*===*===*===*===*===*===*===*===*=

Xem thêm:

Nguồn: Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An: namdan.gov.vn

Đây là bộ nhớ cache http : // Namdan .gov. vn / Chiti%E1 %BA %Bfttint %E1 %BB%A9 c/tabid /10852 /ArticleId/ 406 /tid/10841 /Default .aspx của Google. Đây là ảnh chụp nhanh của các trang được hiển thị vào 6 Tháng Mười 2008 20:18:31 GMT.

Lời Sấm đất Nam Đàn

(không thấy ghi tên tác giả bài viết)

Núi Đụn nằm trong phạm vi 2 xã Đông Liệt (nay là xã Nam Thái) và Khả Lãm (nay là xã Nam Thượng), ở phía tây – bắc huyện, cạnh đường quốc lộ 46 Vinh – Đô lương, cách huyện lỵ Nam Đàn khoảng 3 km. Núi cao khoảng 300m, sườn núi dốc thoai thoải, cây cối xưa kia nhiều, nay không còn mấy. Núi có rào Gang vòng ở phía Bắc và sông Lam vòng ở phía Nam. Cách ngày nay khoảng trên dưới 300 năm, núi bỗng nhiên nứt ra làm đôi, vết nứt dài đến mấy trăm mét và sâu đến dăm, bảy chục mét. Dưới chân núi là Vệ An, thành lũy xưa của Mai Hắc Đế chống quân nhà Đường hồi đầu thế kỷ 8. Hiện nay ở chân núi còn có mộ và đền thờ ông trong một cảnh quan sơn thủy hữu tình.

Cách núi Đụn khoảng 1 km là làng Ngọc Trừng thuộc xã Nam Thái, nơi bà mẹ Mai Thúc Loan sinh ra ông và nuôi ông lớn lên.

Về núi Đụn, trước đây ở đất Lam Hồng có truyền mấy câu sấm:

Đụn sơn phân giới

Bò Đái thất thanh

Thủy đáo Lam Thành

Song Ngư thủy biển

Dịch nghĩa:

Núi Đụn nứt làm đôi

Khe Bò Đái mất tiếng

Nước đến chân Lam Thành

Hai hòn Ngư nước cạn

Mấy câu thơ này trong một bài sấm không biết có từ thời nào và do ai làm. Người ta truyền nhau rằng bài sấm này của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thật thế không thì không ai rõ.

Trong cuốn “Nghệ An ký” của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, người Hà Tĩnh, viết vào cuối thế kỷ 18, có nhắc đến câu sấm này khi ông đến thăm khe Bò Đái. Như vậy khe Bò Đái mất tiếng đã từ lâu, cách ngày nay ít nhất cũng trên 200 năm.

Khe Bò Đái, còn gọi là khe Ồ Ồ, hay suối Võ Nguyên chảy từ vách đá dựng đứng ở rú Kia (Cơ Sơn) ở làng Chi Cơ (kẻ Kia) và xã Võ Nguyên xuống trên một chiều dài vài chục trượng, rộng trên vài chục thước ta, nước chảy từ trên núi dốc xuống đất, tung tóe trắng xóa, trông giống con bò cái đang đái, tiếng khe chảy ồ ồ, ngoài mươi dặm còn nghe thấy. Ngày nay khe Bò Đái vẫn còn chảy, nhưng tiếng không còn vang vọng ra xa nữa; tiếng vang vọng mất đi từ khi núi Đụn nứt đôi, hình thành một cái vực thẳm ở giữa. Có lẽ ngày xưa nước khe Bò Đái chảy ngầm trong hang đá, vì sức chảy mạnh nên sinh ra những tiếng ồ ồ, vang vọng ra xa. Nhưng đến khi núi Đụn bị nứt, thì hang đá cũng bị lay chuyển nứt ra, thành thử nước chảy không kín tiếng nên không kêu nữa. “Đụn sơn phân giới, Bò Đái thất thanh” có lẽ là như vậy. Còn 2 câu sau “Thủy đáo Lam Thành, Song Ngư thủy thiển” (*) thì cũng đã rõ. Vào thời Tự Đức, nước lũ sông Lam đã cuốn mất làng Triều Khẩu thuộc huyện Hưng Nguyên và nước sông Lam đã chảy đến chân núi Lam Thành (rú Thành), còn 2 đảo Ngư là hòn Son và hòn Mực ở Cửa Hội thì nước ở đây ngày một cạn dần, bãi bồi nổi lên trước ngày một lớn và rộng ra.

Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 của thiên niên kỷ thứ 2 này, khi các phong trào cứu nước như Cần Vương, Đề Thám thất bại, trong khi mọi người đang khao khát sớm có một vị cứu tinh kế tiếp đứng ra dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp. Cụ Phan Bội Châu, một nhà nho yêu nước, nổi tiếng hay chữ, đứng đầu tứ hổ Nam Đàn, sau khi đỗ giải nguyên 1900, không chịu ra làm quan, mà đi khắp 2 miền nam bắc hô hào các sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên chống Pháp cứu nước. Vào lúc đó, có ai đó, có thể là một nhà nho yêu nước, đã sửa câu sấm từ hàng trăm năm trước.

Nguồn: Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An: namdan.gov.vn

Đây là bộ nhớ cache http : // Namdan .gov. vn / Chiti%E1 %BA %Bfttint %E1 %BB%A9 c/tabid /10852 /ArticleId/ 406 /tid/10841 /Default .aspx của Google. Đây là ảnh chụp nhanh của các trang được hiển thị vào 6 Tháng Mười 2008 20:18:31 GMT.

(*) Biển / thiển: hẹp, cạn

______________________________

January 11, 2009 at 8:00 am e

XIN KHẲNG ĐỊNH ĐỂ TRÁNH NHỮNG NGỘ NHẬN ĐÁNG TIẾC VỀ WEB.TG.TXA. VÀ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA THẢO LUẬN:

ĐỀ MỤC NÀY ĐƯỢC MỞ RA CHỈ NHẰM MỤC ĐÍCH THANH MINH CHO NHÀ THƠ HỒ CHÍ MINH (ĐỒNG THỜI LÀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ - ANH HÙNG DÂN TỘC), QUA VIỆC WEB.TG.TXA. ĐƯA RA MỘT CÁCH LÍ GIẢI TRÊN CƠ SỞ CÁC DỮ LIỆU XÁC THỰC, NHƯNG CHƯA ĐẦY ĐỦ, NHẤT LÀ THIẾU NHỮNG TƯ LIỆU ĐÃ ĐƯỢC GIÁM ĐỊNH KHOA HỌC THỰC NGHIỆM.

… (Mới được cung cấp thông tin:

1) Tư liệu gốc: Thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng. Cần tìm ra bản gốc và tiến hành giám định thực nghiệm văn bản này.

2) Tư liệu thứ cấp: Khổ thơ Nguyễn Đình Thi, viết năm 1950, đã xuất bản và tái bản nhiều lần.

Đó là 2 tư liệu rất quý) …

DẪU SAO, ĐỀ MỤC BÀN LUẬN VỀ “HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH” TRÊN WEB.TG.TXA. (TXAWRITER/WORDPRESS) ĐÃ ĐƯỢC ĐÓNG LẠI Ở ĐÂY.

WEBTGTXA. (TRẦN XUÂN AN)

07:40, 11-01 HB9 ( 2009 ) & 19;20, 12-01 HB9 ( 2009 )

22.              

tan said

January 13, 2009 at 7:08 pm

Thư của ông TAN:

Author : tan (IP: 123.19.80.32 , 123.19.80.32)

E-mail : ts_n2000@yahoo.com

Trung chuyển: “donotreply@wordpress.com”

Bác Hồ cũng là con người như chúng ta thôi. Nhìn về Bác là cái gì Bác đem lại. Cái đó tốt cho anh thì anh hãy tiếp nhận. Tốt cho tôi thì tôi tiếp nhận. Tốt cho dân tộc thì dân tộc đã tiếp nhận. Nguyễn Đăng Mạnh hay Yếu tôi xem bằng thừa.

WebTgTXA. trả lời:

Thưa ông,

Tôi rất đồng ý với ông về phương diện tiếp nhận những bài học lịch sử từ sử học (không chỉ là bài học về sự ưu việt mà còn có thể có cả những bài học về kinh nghiệm sai lầm, khuyết tật nếu phù hợp với người đọc). Nói một cách khái quát, người đọc sách báo về lịch sử (sử học) hay xem tiểu thuyết, xem phim (bất kì về lĩnh vực nào) cũng đều tiếp nhận bài học theo tâm lí, nhận thức của mỗi người.

Trong tôn giáo cũng vậy. Như trong Phật giáo, mỗi đạo hữu có một hình ảnh Đức Phật riêng, theo tâm lí, nhận thức của mình.

Tuy nhiên, quy luật tiếp nhận ấy chỉ đúng với đại đa số người đọc bình thường.

Theo tôi nghĩ, người nghiên cứu khoa học lịch sử, phải cố gắng thoát ra khỏi tâm lí tiếp nhận ấy, mà cần phải vươn tới sự tiếp nhận khách quan, cho dù trái với tâm lí của mình. Về mặt mức độ nhận thức cũng phải vươn lên, không thể chấp nhận mãi trình độ nhận thức giản đơn.

Chẳng hạn như đọc “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh”, chúng ta không thể giản đơn chấp nhận những gì ông ấy viết ra mà không có tư liệu giám định khoa học thực nghiệm. Bởi thế, tôi chỉ nghĩ là GS. Nguyễn Đăng Mạnh mới phác thảo, sơ thảo, chưa hoàn tất cuốn hồi kí ấy. Còn Dương Thu Hương? Dương Thu Hương có tài năng về văn chương, nhưng tâm và trí quá hạn chế. Dương Thu Hương với “Đỉnh cao chói lọi” thì khỏi nói, đó chỉ là cuốn tiểu thuyết bá vơ, tầm phào, có chủ đích đánh sập chế độ hiện hành tại nước ta mà thôi.

Chúng ta không thể giản đơn đến mức ngây thơ như vậy trong việc tiếp nhận thông tin về lịch sử (gồm nhân vật lịch sử), thưa ông.

Trân trọng,

Trần Xuân An

16: 30, 14-01 HB9 ( 2009 )

———————————————————

January 11, 2009 at 8:00 am e

XIN KHẲNG ĐỊNH ĐỂ TRÁNH NHỮNG NGỘ NHẬN ĐÁNG TIẾC VỀ WEB.TG.TXA. VÀ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA THẢO LUẬN:

ĐỀ MỤC NÀY ĐƯỢC MỞ RA CHỈ NHẰM MỤC ĐÍCH THANH MINH CHO NHÀ THƠ HỒ CHÍ MINH (ĐỒNG THỜI LÀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ - ANH HÙNG DÂN TỘC), QUA VIỆC WEB.TG.TXA. ĐƯA RA MỘT CÁCH LÍ GIẢI TRÊN CƠ SỞ CÁC DỮ LIỆU XÁC THỰC, NHƯNG CHƯA ĐẦY ĐỦ, NHẤT LÀ THIẾU NHỮNG TƯ LIỆU ĐÃ ĐƯỢC GIÁM ĐỊNH KHOA HỌC THỰC NGHIỆM.

… (Mới được cung cấp thông tin:

1) Tư liệu gốc: Thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng. Cần tìm ra bản gốc và tiến hành giám định thực nghiệm văn bản này.

2) Tư liệu thứ cấp: Khổ thơ Nguyễn Đình Thi, viết năm 1950, đã xuất bản và tái bản nhiều lần.

Đó là 2 tư liệu rất quý) …

DẪU SAO, ĐỀ MỤC BÀN LUẬN VỀ “HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH” TRÊN WEB.TG.TXA. (TXAWRITER/WORDPRESS) ĐÃ ĐƯỢC ĐÓNG LẠI Ở ĐÂY.

WEBTGTXA. (TRẦN XUÂN AN)

07:40, 11-01 HB9 ( 2009 ) & 19;20, 12-01 HB9 ( 2009 )

23.              

January 16, 2009 at 7:15 am

NGƯỜI ĐỌC MANG TÊN ĐỐI KÍNH LÀ AI?

Cũng như vài lần trước, khi đưa một bài viết thuộc loại “nhạy cảm về chính trị, tôn giáo”, tôi thường phải lấy một bút danh tình cờ nào đó: Trần Ngôn Sử, Dụng Sài Gòn, Nguyễn Công Dân… (ngoài bút danh Huyên Đình, Phan Huyên Đình vốn có). Lần này cũng vậy, sau khi nhận thấy không có phản ứng khủng bố nào, để tránh những ngộ nhận đáng tiếc, tôi thấy cũng nên nói thật: ĐỐI KÍNH (nhìn chính mình trên màn hình) là tôi: Trần Xuân An (WebTgTXA.).

Mong tất cả mọi người đọc của WebTgTXA. mỉm cười về “thủ thuật báo chí” này.

Còn nhà giáo Ngô Thủ Lễ (Quốc Học, Huế), nhà văn Võ Nguyên (Sở Giáo dục & Đào tạo, Phan Thiết), thạc sĩ Lê Tiến Công (ĐH. Phan Châu Trinh, Hội An), tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Ba (Huế) là hoàn toàn có thật… Cũng có thật các điện thư: Lê Văn Trà, Tan (nhưng tôi không biết hai người đọc này là ai)…

Trân trọng,

Trần Xuân An

07:10, 16-01 HB9 ( 2009 )

24.              

January 21, 2009 at 9:01 am

THƯ CỦA NGƯỜI ĐỌC TRẦN LIÊNG ( 21-01-”09 ):

Kính gửi ông Trần Xuân An,

Ông Trần Xuân An giải mã bài sấm kí 4 câu (có địa danh chữ Nôm: Núi ĐụnBò Đái) theo nhãn quan văn hóa học như thế, tôi nghĩ không riêng những làng Việt cổ hiện nay ở Trung, Nam, Bắc mà cả bộ phận dân tộc Chăm nước ta cùng đa số người Ấn tại Ấn Độ theo đạo Bà La Môn, Hindu đều rất cảm động, và càng thấy Thánh nhân Nam Đàn Hồ Chí Minh gần gũi với họ.

21-01- ”09

25.              

January 21, 2009 at 7:59 pm

NGOÀI LỀ, SAU KHI ĐỀ MỤC NÀY ĐÃ ĐƯỢC ĐÓNG LẠI: THUẦN VIỆT, NHƯNG CÓ QUAN HỆ GÌ VỚI NGƯỜI CHĂM & ĐẠO BÀ LA MÔN, ẤN ĐỘ GIÁO (HINDU)

Kính gửi ông Trần Xuân An,

Xin hỏi ông một câu ngoài lề:

Tôi biết ông là một người thuần Việt (Kinh), nhưng ông còn có quan hệ nào với người Chăm, đạo Bà La Môn, Ấn Độ giáo (Hindu)?

Trần Liêng.

Trần Xuân An trả lời:

Vâng, thưa ông, tôi là một người thuần Việt (nhân tộc Kinh) hay thuần Kinh (Việt Nam). Tất nhiên tôi có quan hệ bạn bè với người Chăm. Ngoài ra, tôi cũng yêu thích việc tìm hiểu văn hóa Việt Nam theo suốt chiều dài lịch sử 4.000 năm, chú tâm đến mối quan hệ tương tác giữa văn hóa học, sử học, văn học… Vả lại, tôi cảm thấy người Kinh (Việt Nam) có một món nợ đối với người Chăm (Việt Nam), môt nhân tộc rất tài hoa nhưng cũng rất đau thương. Vì thế, không những tôi kính trọng văn hóa Chăm, tìm thấy trong đó có những giá trị nghệ thuật, triết học, mà còn mong được chan hòa sâu sắc, thắm thiết.

Trân trọng,

Trần Xuân An

21-01 HB9 ( 2009 ): 26-12 Mậu tí–>Kỉ sửu HB9

26.              

January 26, 2009 at 5:05 pm

WEBTGTXA. SẴN SÀNG XÓA BỎ NHỮNG PHẦN GIẢI MÃ SẤM KÍ “NAM ĐÀN SINH THÁNH” CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TÔN GIÁO BÀ LA MÔN, HINDU, NẾU CÓ YÊU CẦU CỦA CƠ QUAN HỮU TRÁCH Ở NƯỚC TA HOẶC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ, TRÍ THỨC CHĂM TẠI VIỆT NAM

1) txawriter.wordpress.com/2008/12/04/…/#comment-351

2) tranxuanan.writer.googlepages…baimoi-…20

3) tranxuanan.writer.3.googlepages…mukhalinga.htm

MẶC DÙ XUẤT PHÁT TỪ THIỆN Ý LÀ LÀM RÕ MỘT TƯ LIỆU SẤM KÍ DÂN DÃ VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, NHƯNG CÓ THỂ TÔI SẼ BỊ NGỘ NHẬN MỘT CÁCH ĐÁNG TIẾC. LÍ DO BỊ NGỘ NHẬN CŨNG RẤT DỄ HIỂU: PHẦN LỚN NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ĐÃ CẢM THẤY XA LẠ VỚI QUAN NIỆM VÀ TẬP TỤC TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC (SINH THỰC KHÍ — NÕN NƯỜNG — HÌNH TƯỢNG ÂM DƯƠNG CỔ SƠ), VÀ CÀNG XA LẠ HƠN VỚI NHỮNG HÌNH TƯỢNG BÀ LA MÔN, HINDU (ẤN ĐỘ GIÁO), HAY NÓI ĐÚNG HƠN, LÀ TRONG MỖI NGƯỜI VIỆT VẪN TỒN TẠI MỘT KHÍA CẠNH TÂM THỨC VỪA CHAN HÒA VĂN HÓA VỪA MÂU THUẪN VĂN HÓA (giá trị văn hóa Chăm đặt trong môi trường văn hóa Chăm thì tốt, nhưng đặt trong môi trường văn hóa Kinh, sẽ có tác dụng ngược lại), NÊN QUA NHỮNG PHẦN GIẢI MÃ SẤM KÍ TRÊN, TÔI (một người Kinh đang sống trong môi trường văn hóa Kinh) CÓ THỂ SẼ BỊ HIỂU LẦM LÀ ĐÃ XUYÊN TẠC, BÔI NHỌ.

TÔI SẴN SÀNG CHẤP NHẬN BỊ TÙ ĐÀY DO NHỮNG BÀI NHƯ “Ý NGHĨ VỀ DỰ KIẾN SỬA ĐỔI SÁCH GIÁO KHOA VĂN & SỬ” CHẲNG HẠN, NHƯNG NẾU DO NHỮNG PHẦN GIẢI MÃ NÓI TRÊN MÀ BỊ TÙ ĐÀY THÌ THẬT KHÔNG ĐÁNG, BỞI LẼ BÀI SẤM KÍ DÂN DÃ 4 CÂU KỂ TRÊN CHỈ LÀ MỘT MẢNH TƯ LIỆU QUÁ NHỎ. VẢ CHĂNG, NẾU TÔI MUỐN CÔNG BỐ NHỮNG NHẬN THỨC, SUY NGHĨ CỦA TÔI NHƯ “ĐỂ PHẦN NÀO THẤU HIỂU SỰ CHAN HÒA VĂN HÓA TỪ CỔ SƠ ĐẾN HIỆN ĐẠI CỦA HAI NHÂN TỘC KINH - CHĂM TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC VIỆT NAM, CỦA CÁC DÂN TỘC CHÂU Á & CỦA NHÂN LOẠI” (với ý hướng đánh thức một nét văn hóa — tín ngưỡng nõn nường — đã ngủ vùi trong mỗi người Kinh), HÀ TẤT TÔI PHẢI VẬN DỤNG VÀO TƯ LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN ANH HÙNG DÂN TỘC HỒ CHÍ MINH. Nếu quả thật như tôi nghĩ, tư liệu sấm kí có nhãn từ “Bò Đái” (& “Núi Đụn”) ấy không còn cách giải mã nào khác nữa, tôi cũng có thể bỏ qua, xem như không có bài sấm kí ấy hoặc chỉ ghi nhận mà không giải mã, bình buận.

WEBTGTXA.

26-01 HB9 ( 2009 )

[ MÙNG 1 TẾT NGUYÊN ĐÁN KỈ SỬU HB9 ]

27.              

February 9, 2009 at 1:18 pm

THAM KHẢO: ĐỤN SƠN – Vua đen MAI HẮC ĐẾ — PHẢI CHĂNG CÓ YẾU TỐ CHĂM-PA (LÂM ẤP), KH’MER (CHÂN LẠP), ĐẠO BÀ LA MÔN TRONG BÀI SẤM “NAM ĐÀN SINH THÁNH”?

______________________________________________

Thể thao & văn hóa,

9/2/2009, 10:18 (GMT+7)

Khai mạc lễ hội Đền Vua Mai tại Nghệ An

(TT&VH) - Sáng qua 8/2, Lễ hội Đền Vua Mai đã được tổ chức tưng bừng tại núi Đụn Sơn (xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

Lễ hội nhằm bày tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn đối với Vua Mai Thúc Loan, người anh hùng của quê hương và dân tộc. Đây là Lễ hội đầu tiên mở đầu cho mùa Lễ hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An năm 2009.

Hình ảnh: Đền thờ Vua Mai tại Nghệ An

Trong 3 ngày từ 7 đến 9/2 (tức 13-15 âm lịch), nhiều lễ nghi tôn nghiêm được các vị bô lão tổ chức tại phần mộ ở núi Đụn Sơn (xã Vân Diên) và Đền thờ Vua Mai (thị trấn Nam Đàn). Dự kiến, hơn 20.000 người sẽ tham gia các hoạt động của lễ hội này.

Viết Hùng

XEM THÊM ( WebTgTXA., 10-02 HB9 ):

“Đại Việt sử kí toàn thư” ghi:

“Nhâm tuất, [722], (Đường, Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). [...] Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn”.

Trích nguyên văn từ “Đại Việt sử kí toàn thư”, bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003., tr. 269 (NK. [ngoại kỉ], q. [quyển] V, [tờ] 4b).

“Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn ghi nhận:

“Đền Mai Hắc đế: ở địa phận xã Hương Lãm, huyện Nam Đường. Thần họ Mai, tên Thúc Loan, mặt sắt, mình đen, hình dáng hùng vĩ, nhiều người tin tưởng vui theo. Bấy giờ nước ta thuộc nhà Đường, khoảng niên hiệu Khai Nguyên, Quang Sở Khách làm đô hộ An Nam, chính lệnh tham bạo, dân không chịu nổi, nhiều người phải trốn vào rừng làm việc trộm cướp. Thúc Loan bèn dấy quân ở Hoan Châu, những người trộm cướp ở các quận đều hàng phục, bèn liên kết với các nước Lâm Ấp và Chân Lạp, số quân có đến 30 vạn, chiếm cứ Giao Châu mà xưng đế, đóng ở thành Vạn Yên (Sa Nam). Nhà Đường sai nội thị là Dương Tư Húc đem quân sang đánh, vua bèn rút quân đến đóng ở núi Hùng Sơn. Khi mất, táng ở phía nam núi đất, người địa phương lập đền thờ”.

Trích nguyên văn: Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam nhất thống chí”, tập 2, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 188 – 189.

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/suy_nvmsvdtlscdnta_b7.htm

28.              

February 10, 2009 at 3:22 pm

THAM KHẢO: Báo điện tử Sài Gòn Giải Phóng: BẠN ĐỌC ĐẶT CÂU HỎI (trích)

Tại sao có các địa danh nôm na như: khe Bò Đái?

SGGP:: Cập nhật ngày 30/08/2006 lúc 11:20′(GMT+7)

http://www.sggp.org.vn/bandocdatcauhoi/2006/8/59058/

LƯƠNG THỊ THU CÚC (Bình Định)

LÊ TRUNG HOA: Một trong những đặc điểm của các địa danh do người bình dân đặt là tính nguyên sơ, dân dã.

[…]

Còn Bò Đái là tên khe núi tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, được ghi nhận trong Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Bò Đái là một địa danh thuần Việt nhưng gốc Tày, Nùng, nguyên dạng là Bó Đảy. Bó: nguồn nước, Đảy: nứa tép. Bó Đảy là nguồn nước có nhiều cây nứa tép (Hoàng Văn Ma, Địa danh vùng Tày Nùng trong Những vấn đề ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học xuất bản, 2002, tr.202-213).

Như vậy, vì Bó Đảy gần âm với Bò Đái, người Kinh đã dùng từ tổ có sẵn trong tiếng Việt đã phiên âm.

Ý kiến WebTgTXA.:

Địa danh phần lớn đều có dấu vết văn hóa, gồm cả văn hóa vô thức. Cũng cần lưu ý là nhiều nền văn hóa, nguồn văn hóa đan xen, chồng lớp lên nhau (Việt cổ – Tày Nùng – Chăm – Kh’Mer…). Cơ sở cổ sử thời Vua đen Mai Hắc Đế cho thấy là vùng đất Nam Đàn (Nghệ An) có sự giao lưu văn hóa giữa Việt cổ và Lâm Ấp (Chăm-pa), Chân Lạp (Kh’Mer).

Dẫu sao, sự ổn định lâu đời của địa danh Bò Đái, không những trên cửa miệng người dân mà cả trong sử sách, cũng là sự lựa chọn của người Việt địa phương.

Phải chăng sự lựa chọn này cũng do văn hóa vô thức (nõn nường, linga - yoni, Shiva — Bò thần Nandin) chi phối? Hoặc giả, nguyên do trực tiếp chỉ là ấn tượng trực quan sinh động của khe nước chảy mạnh từ vách núi, trông như con bò đang đứng đái mà thôi, chứ chẳng phải có nguồn gốc địa danh Tày Nùng gì cả.

Vấn đề là ngữ nghĩa của địa danh thuần Việt Bò Đái và hình tượng so sánh con bò đang đứng đái, trong một bài sấm kí nghiêm túc, nói về sự đản sanh của một vị thánh. Thật sự không ai dám đùa bỡn với sự đản sanh đó. Đành rằng có một số địa danh có thể được đặt ra với sự tinh nghịch dân dã, nhưng khi đưa vào bài sấm kí nghiêm túc mà không dùng tên chữ “Vũ Nguyên” (Nguồn Vũ), lại dùng “Bò Đái”, hẳn có một dụng ý nhất định.

Nội dung cả bài sấm kí 4 câu là nói đến sự rung chuyển long trời lở đất của thế cuộc, là cơn trở dạ dữ dội của non sông đất nước Nam Đàn và của nguyên khí âm - dương vũ trụ khi sinh nở ra vị thánh nhân. Toàn cảnh gợi đến Shiva (hiện thân là Bò thần Nandin), vị thần Hủy Diệt và Sáng Tạo.

Vấn đề khốc liệt từ cách giải mã này là đưa đến sự mâu thuẫn văn hóa trong tiếp nhận của người đọc. Có biết bao nhiêu phong tục, tập quán, nếu người thuộc nền văn hóa X, không thể hiểu nổi văn hóa Z; và ngược lại. Nhưng nếu chúng ta thấy được linga - yoni, nõn - nường vốn là biểu tượng nguyên sơ, hồn nhiên tối cổ đã được biểu trưng hóa thành âm - dương (Kinh Dịch) rồi trừu tượng hóa thành quy luật mâu thuẫn - thống nhất (biện chứng pháp), sẽ hóa giải được sự xung khắc khốc liệt vừa nói, và tìm ra mẫu số chung của nhân loại. Mẫu số chung của nhân loại còn thể hiện ở tín ngưỡng vật tổ (totem): Bò thần (Ấn), Chó ngao (Anh), Gà trống (Pháp), Chim Lạc, Rồng - Tiên (Việt - Kinh)…

Nếu với nhãn quan văn hóa khác, chúng ta còn thấy trong thiền học cũng có những công án có cách diễn đạt phá chấp khốc liệt như vậy, chẳng hạn, khi được hỏi “Phật tính” là gì, câu trả lời là “càn thỉ khuyết” (cục cứt khô).

Tuy vậy, WebTgTXA. vẫn trích dẫn câu trả lời của nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa trên báo điện tử SGGP. (30/08/2006) để tham khảo thêm, dè chừng sự giải mã khiên cưỡng bài sấm kí có địa danh ấy.

Nhân đây, cũng xin nói thêm ít dòng về “Nam Đàn sinh (sanh) Thánh”. Dẫu sao, bài sấm kí này cũng mang phong cách dân gian, xuất hiện và định hình trong bối cảnh tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng chiếm ưu thế.

Hồ Chí Minh (Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc) lại là một lãnh tụ cộng sản, cho dù là một lãnh tụ cộng sản Việt Nam, Châu Á, vốn xuất thân từ một gia đình Nho học (”kính quỷ thần nhi viễn chi”, tôn kính quỷ thần nhưng nên xa lánh quỷ thần). Là người cộng sản, Hồ Chí Minh dĩ nhiên phê phán “chủ nghĩa khổ hạnh kiểu thầy tu” (cụm từ như một thuật ngữ), mà đề cao lối sống bình thường, có vợ có chồng nhưng mẫu mực. Là người xuất thân từ gia đình nhà nho, chắc hẳn đối với Hồ Chí Minh việc có con nối dõi tông đường là không thể xem nhẹ. Truyền thống lịch sử Việt Nam cũng không có minh chủ, lãnh tụ nào không vợ con (ngoại trừ Phạm Sư Ôn, một tu sĩ Phật giáo thời cuối Trần, đầu Hồ). Nhiều lãnh tụ cộng sản khác cũng vào sinh ra tử nhưng đều lập gia đình riêng, mặc dù có thể thời gian sống với vợ con không nhiều. Chính Hồ Chí Minh cũng tự nhận khuyết điểm của mình là không lấy vợ (và khuyết điểm thứ hai là nghiện thuốc lá), có nghĩa là Hồ Chí Minh không bao giờ đề cao lối sống trọn đời độc thân. Khi xem việc không lấy vợ là khuyết điểm thứ nhất của đời mình, Hồ Chí Minh tự biết bản thân Người, riêng về khía cạnh này, không phải là điển hình lí tưởng (hình tượng chuẩn mẫu) theo nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và Nho giáo.

Từ những chứng cứ đó, chúng ta nên hiểu thánh nhân ở bài sấm kí trên là thánh nhân bẩm sinh.

TXA.

Trần Xuân An

15: — 16:31, 10-02 HB9

(Có sửa chữa một ít chữ, bổ sung vài dòng và viết thêm đoạn cuối, : 8:20 — 9:19 & 15:40, 11-02 HB9 )

Viết nhân ngày Lễ hội Vua đen Mai Hắc Đế tại Nam Đàn, Nghệ An năm nay, Rằm tháng Giêng, Kỉ sửu HB9

=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=

(Bản PDF hoàn chỉnh, 11 & 12-02 HB9: NHẬT KÍ TÌM HIỂU THỰC TRẠNG ĐỘC THÂN CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ HỒ CHÍ MINH) >>>>> LINK — Bấm vào đây >>>>>

BẢN HOÀN CHỈNH CÓ BỔ SUNG - 13-02 HB9 — Bấm vào đây

BẢN HOÀN CHỈNH dạng Word, ĐÃ BỔ SUNG - 13-02 HB9 — Bấm vào đây

=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=*=

Ngày 01-03 HB9:

THỰC TRẠNG ĐỘC THÂN CỦA BÁC HỒ — 18 — 27-02 HB9 — Bấm vào đây

 

 

 

----------------------------------

 

Cập nhật (22-12 HB8): 2 bài trên đã được đăng tiếp trên Tạp chí điện tử Chim Việt Cành Nam tại Pháp: http://chimviet.free.fr/33/txan052.htm#bai2    &  http://chimviet.free.fr/33/txan052.htm#bai3 . Thành thật cảm ơn ông chủ biên Lại Như Bằng.  Xem: Google tìm kiếm, lưu trữ   Ghi chú: Sự biến đổi kí tự do font chữ: Khi tôi viết: "... tiểu sử tác giả (thân thế, con người…) -- tác phẩm (tư tưởng, hình tượng nghệ thuật, thủ pháp thể hiện…)", tôi dùng dấu gạch ngang, dấu này dài hơn dấu ngang nối (-), nhưng font chữ arial không có dấu gạch ngang, nên tôi phải dùng 2 dấu ngang nối liền nhau (--). Không hiểu sao nó lại biến đổi thành một kí tự loại biểu trưng (symbol): ( —), dài gấp 3 lần dấu ngang nối. Loại kí tự thuộc dạng biểu trưng (symbol) này thường hay biến đổi thành các biểu trưng khác khi gặp windows không tương thích với nó (như windows Firefox). Tương tự như thế, kí tự kép Œ (OE hay Oe) cũng bị biến đổi. Vậy, xin đính chính. Nhân dây, xin nói rõ hơn. Dấu gạch ngang, tạm dùng bằng 2 dấu gạch nối (--), cũng có thể diễn đạt bằng dấu tương tác, tạm dùng bằng cách ghép bằng 3 dấu <=> và 2 vế dẫn trên sẽ trở thành: "... tiểu sử tác giả (thân thế, con người…) <=>tác phẩm (tư tưởng, hình tượng nghệ thuật, thủ pháp thể hiện…)", có nghĩa là quan hệ giữa tiểu sử tác giả với tác phẩm của tác giả là quan hệ tương tác biện chứng (tác động qua lại; chuyển hóa lẫn nhau theo 2 chiều, trong nhiều tương quan khác, như với hoàn cảnh sáng tác, và đặc biệt là tác giả viết dưới ánh sáng nhận thức -- tri kiến, thế giới quan, nhân sinh quan nào...).

 

Cập nhật (22-12 HB8): Mẩu hỏi - đáp dưới đây vốn thuộc về mục "Ý kiến bạn đọc", nhưng thiết tưởng cũng nên đặt thêm ở đây: Bàn luận cuối về một chi tiết trong "Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh": December 22, 2008 at 3:30 pm

 

 

_________________________________________________________________

 

17-4 HB9 (2009)

 

 

 

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE