Tổ sư Minh Đăng Quang dạy:Tâm không vạn sự đều không/Tâm chơn vạn pháp thảy đồng quy chơn!
Tổ sư Minh Đăng Quang đã dạy:Thiền tọa gốc cây hàng Huệ sĩ , Chôn mình trong đất bậc Chân nhân , Thân tâm thanh tịnh hưởng Niết-bàn , Trí tánh hành đạo chuyển Pháp luân.
Huyền diệu thay Tánh Không thiền , Động tịnh nói làm vẫn như nhiên , Bình tâm vô niệm trong hơi thở , Đi đứng nằm ngồi vẫn lặng yên !
Kinh Tịnh Danh nói: "Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng." (nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo).
Kinh nói: "Pháp thiện pháp ác từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có."
ÂM:“Ái bất trọng bất sanh Ta bà, niệm bất nhất bất sanh Tịnh độ” nghĩa là tâm không tham ái thì không sanh ra trên cõi đời này, niệm không chuyên nhất thì không được sanh vào thế giới Tịnh độ
Âm “Đại đỗ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự Hàm nhan vi tiếu, tiếu thế gian nan tiếu chi nhân”Nghĩa là: Cái bụng lớn có thể dung chứa những việc mà người đời không dung chứa đượcMiệng nở nụ cười mỉm với những điều mà người đời khó có thể mỉm cười được.(Hàm Ý Nói Ngài Di Lặc)
Tuệ Trung Thượng Sĩ ÂM: Bản lai vô cấu tịnh , Cấu tịnh tổng hư danh , Pháp thân vô quái ngại , Hà trược phục hà thanh ?/NGHĨA: Xưa nay không dơ sạch,Dơ sạch toàn tên suông, Pháp thân chẳng ngăn ngại, Gì đục lại gì trong ?
Tuệ Trung Thượng Sĩ ÂM: Bản vô tâm vô đạo,Hữu đạo bất vô tâm,Tâm đạo nguyên hư tịch,Hà xứ cánh truy tầm ?/NGHĨA: Vốn không tâm không đạo, Có đạo chẳng không tâm.Tâm đạo vốn rỗng lặng,Chỗ nào đâu đuổi tầm ?
ÂM: Nhất Bát Thiên Gia Phạn/Cô Thân Vạn Lý Du / Kỳ Vi Sanh Tử Sự/Giáo Hóa Độ Xuân Thu. NGHĨA: Bát Cơm Xin Ngàn Nhà/Thân Đi Muôn Dặm Xa/Chỉ Một Việc Sinh Tử/Giáo Hóa Độ Chúng Sinh.
Pháp Hoa và Duyên Khởi:ÂM:Chư Phật Lưỡng Túc tôn/Tri Pháp thường Vô tánh/Phật chủng tùng Duyên khởi/Thị cố thuyết nhất thừa...."Nghĩa l:Chư vị Phật, chư vị Trí, Hạnh (Bi)/Biết pháp luôn vẫn Vô tánh/Quả Phật do từ duyên mà khởi/Cho nên bảo là Nhất thừa.
ÂM: Thử hữu bỉ hữu /Thử vô bỉ vô/Thử sanh bỉ sanh /Thử diệt bỉ diệt. NGHĨA: Do cái này có mặt, cái kia có mặt/Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt/Do cái này sanh, cái kia sanh/Do cái này diệt, cái kia diệt .
Ngài Lâm Tế :”Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, nhậm vận trước y xiêm.” / “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, thong dong mặc áo xiêm.”
ÂM:Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp,Thập phương hà xứ động đao binh,Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện,Thiên hạ hà sầu bất thái bình.NGHĨA:Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết,Mười phương nào có nổi đao binh,Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện,Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.
KINH NIẾT BÀN"Phù sĩ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn", nghĩa là: Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ trảm chém mình là do lời nói ác. Đã đành nói ly gián, nói xuyên tạc là để hại người, nhưng khi đã làm hại người thì thế nào người cũng hại lại mình. "Ác lai ác báo" là thế. Để tránh sự thù hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên dối trá, điêu ngoa.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM:Ác ngôn mạ lị , Kiêu lăng miệt nhân ,Hưng khởi thị hành ,Tật oán tư sanh / Kiêu căng, sử dụng những lời ác độc để chửi mắng, lăng mạ và tỏ ý khinh miệt người khác, làm như thế thì sẽ gây ra nhiều thù oán.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Tốn ngôn thuận từ ,Tôn kính ư nhân ,Khí kết nhẫn ác ,Tật oán tự diệt / Sử dụng lời nói từ tốn, thuận thảo và lịch sự đối với người khác thì có thể dập tắt được những oán kết. Nhẫn nhục được trong những trường hợp bức xúc, làm như thế thì ganh ghét và hờn oán sẽ tự tiêu tan.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Phu sĩ chi sanh ,Phủ tại khẩu trung ,Sở dĩ trảm thân , Do kỳ ác ngôn / Con người sinh ra trên đời nếu sử dụng ác ngữ thì cũng như có một lưỡi búa trong miệng mình. Chính lưỡi búa ấy sẽ chặt đứt thân mạng của mình.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Tránh vi thiểu lợi ,Như yểm thất tài ,Tòng bỉ trí tránh ,Lệnh ý hướng ác / Cãi cọ không đem lại một chút lợi ích nào, chỉ có tác dụng bít lấp truyền thông, làm hao thất tài sản mình và đưa tới tranh chấp khiến cho tâm ý hướng về nẻo xấu.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Dự ác ác sở dự,Thị nhị câu vi ác ,Hảo dĩ khẩu quái đấu ,Thị hậu giai vô an/ Khen ngợi cái ác cũng như nói lời ghét bỏ những người được xưng tụng, cả hai đều là chuyện không nên làm. Ưa thích tranh cãi và đấu lý sẽ đem lại tình trạng không có bình an sau này.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Vô đạo đọa ác đạo ,Tự tăng địa ngục khổ,Viễn ngu tu nhẫn ý,Niệm đế tắc vô phạm / Lời nói không phù hợp đạo lý sẽ làm cho mình sa đọa vào các con đường dữ, chỉ có công dụng làm lớn thêm cái khổ địa ngục của mình. Biết lánh xa kẻ ngu phu, biết tu hạnh nhẫn nhịn và luôn luôn nhớ tới sự hành trì trên con đường tứ đế và bát chánh đạo thì sẽ không phạm vào lầm lỗi ấy.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Tùng thiện đắc giải thoát ,Vi ác bất đắc giải ,Thiện giải giả vi hiền ,Thị vi thoát ác não ./ Hành xử hiền lành thì đạt tới giải thoát, hành xử dữ dằn thì không tự cởi trói cho mình được. Kẻ biết khéo léo hóa giải là bậc hiền nhân, có khả năng vượt ra ngoài mọi não phiền hung dữ.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Giải tự bão tổn ý ,Bất táo ngôn đắc trung ,Nghĩa thuyết như pháp thuyết,Thị ngôn nhu nhuyễn cam./ Đừng ôm ấp ý muốn làm tổn hại và trừng phạt người khác. Không có tiết tháo thì lời nói không trung thực. Nói lời có nghĩa, có lý thì cũng giống như nói pháp, những lời như thế có vị ngọt của Cam lộ.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Thị dĩ ngôn ngữ giả ,Tất sử kỷ vô hoạn ,Diệc bất khắc chúng nhân ,Thị vi năng thiện ngôn./ Ai có khả năng sử dụng ngôn ngữ tốt lành ấy thì sẽ không tạo tai họa cho chính mình, cũng không gây xung đột với người.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Ngôn sử đầu ý khả ,Diệc lệnh đắc hoan hỉ ,Bất sử chí ác ý ,Xuất ngôn chúng tất khả./ Lời nói gây ra được sự tâm đầu ý hợp có tác dụng làm cho người ta hoan hỷ, không đưa tới ác ý. Nói năng được như thế có thể giúp cho mọi người chấp nhận hài hòa.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Chí thành cam lộ thuyết ,Như pháp nhi vô quá ,Đế như nghĩa như pháp ,Thị vi cận đạo lập./ Tâm chí thành đưa tới lời nói cam lộ, đúng như giáo pháp mà không ai có thể trách cứ được. Lời nói ấy phù hợp với chân nghĩa, với chánh pháp, đi đúng vào con đường chánh đạo.
(kinh Pháp Cú trong Hán tạng Kinh thứ 8) ÂM: Thuyết như Phật ngôn giả,Thị cát đắc diệt độ ,Vi năng tác hạo tế ,Thị vị ngôn trung thượng ./Nên sử dụng ngôn ngữ của Bụt sử dụng, nói những lời an lành có công năng đưa tới Niết Bàn và có công năng xây dựng được môi trường tu tập chánh pháp. Đó là thứ ngôn ngữ cao nhất của tất cả các ngôn ngữ.
ÂM:"Đạo tu chi vu thân, kỳ đức nãi chân; tu chi vu gia, kỳ đức nã chỉ; tu chi vu lương, kỳ đức nãi trường; tu chi vu bang; kỳ đức nãi phong; tu chi vu thiên hạ, kỳ đức nãi phổ" (nghĩa là đạo tu ở bản thân, cái đức mới thật; tu ở nhà, đức mới nhiều; tu ở xóm làng thì đức mới rộng; tu khắp thiên hạ thì đức mới trở nên phổ biến sâu rộng) - (Chương 54).Trang Tử .
"hoằng hoá lấy đức cảm người truyền bá để đức cho đời noi gương":1- Đoạn đức 2-Giải Thoát đức 3-Bát nhã đức 4- Niết bàn đức (kinh niết bàn)
“Sinh hữu ký, tử vô kỳ “. Sống có giới hạn, chết không định trước. ''Chết không định trước'', nên buồn lo, chỉ là vô ích.
BỐ ĐẠI HÒA THƯỢNG:“Di Lặc chân Di Lặc. Phân thân thiên bách ức. Thời thời thị thời nhân. Thời nhân tự bất thức”Ngài nói rằng: Di Lặc thật Di Lặc. Phân thân trong muôn ức. Thường thường chỉ dạy người đời. Người đời tự không biết.
BỐ ĐẠI HÒA THƯỢNG:
Di Lặc! Chân Di Lặc,
Hóa thân bách thiên ức.
Thời thời thị thời nhân,
Thời nhân bất tự thức.
Ngô hữu nhất khu Phật,
Thế nhân giai bất thức.
Bất diêu diệc bất khắc.
Vô nhứt chích khôi nê,
Vô nhất điểm thái sắc.
Nhơn họa, họa bất thành,
Tặc thu, thu bất đắc.
Thể tướng bổn tự nhiên,
Thanh tịnh phi bất thức.
Tuy nhiên thủy nhất khu,
Phân thân bách thiên ức.
Hành giả bố đại,
Trụ giả bố đại.
Tọa giả bố đại,
Ngọa giả bố đại.
Phóng hạ bố đại,
Đắc đại tự tại.
Nghĩa:
Di Lặc! Thiệt Di Lặc,
Hóa thân trăm ngàn ức.
Đời đời vẫn hiện đây,
Người nay đâu tự biết.
Ta có một cốt Phật.
Người đời đâu có biết,
Khỏi cần chạm với khắc.
Không một ngấn bụi tro,
Không một điểm màu sắc.
Thợ vẽ, vẽ chẳng xong,
Trộm mong, mong chẳng được.
Thể tướng vốn tự nhiên,
Trong lặng khỏi quét tước.
Tuy chỉ một cốt thôi,
Phân thân trăm ngàn ức.
Đi cũng túi vải,
Đứng cũng túi vải.
Ngồi cũng túi vải,
Nằm cũng túi vải.
Buông xuống túi vải,
Được đại tự tại.