Đường Tam Tạng Huyền Trang nói:"Chỉ rõ tâm địa ,Nên gọi Tổng trì ,Hiểu pháp vô sinh ,Tên gọi Diệu Giác"
Thiền sư Bách Trượng (720-814) đời Đường, ông dựng nên tinh thần tác vụ: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (一 日 不 作,一 日 不食/ Ngày nào không làm, ngày đó không ăn),
HoàThượng Bố Đại: Thủ bả thanh ương sáp mãn điền,Đê đầu tiện kiến thủy trung thiên,Tâm địa thanh tịnh phương vi đạo,Thối bộ nguyên lai thị hướng tiền。 (手把青秧插满田,低头便见水中天,心地清净方为道,退步原来是向前。)Nghĩa:“Tay cầm mạ xanh cấy khắp ruộng, cúi đầu thì thấy trời trong nước, tâm địa thanh tịnh mới là đạo, lùi bước vốn là hướng lên phía trước.” Nghĩa là, tấm lòng khiêm tốn sâu rộng như khe núi, cúi đầu lùi bước một cách khiêm tốn thận trọng, mới có thể nhận chân rõ được bản thân một cách chân thật, quán chiếu được bản tính của mình.
Hai bờ: Sống chết. Bốn tướng: Sinh Lão Bệnh Tử. Trong Truyện Quan-âm Thị-Kính có câu:
“Sao bằng vui thú liên trì,, Dứt không tứ-tướng sá gì nhị-biên. Đạo này huyền thực là huyền,Hư vô mà vẫn trang nghiêm thế này”.
HOÀ THƯỢNG: "Hoà kỷ, hoà tha, hoà chánh đạo.Thượng nhân, thượng nghĩa, thượng tâm từ.”
Âm:"Tác hữu nghĩa sự. Thị tỉnh ngộ tâm.Tác vô nghĩa sự. Thị cuồng loạn tâm.Cuồng loạn tùy tình niệm. Lâm chung bị nghiệp khiên.Tỉnh ngộ bất do tình. Lâm chung năng chuyển nghiệp".Nghĩa là: Làm việc có nghĩa, đem lại an lạc hạnh phúc, cho mình và cho người. Là tâm tỉnh ngộ.Làm việc vô nghĩa, đem lại phiền não khổ đau, lợi mình hại người. Là tâm cuồng loạn.Cuồng loạn theo tình niệm: thương ghét ân oán. Lâm chung bị nghiệp lôi.Tỉnh ngộ không theo tình, tâm bình tĩnh thản nhiên. Lâm chung chuyển được nghiệp !
“Tâm buồn cảnh được vui sao.Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”.
“Sân si nghiệp chướng không chừa.Bo bo mà giữ tương dưa làm gì”?
"Cọp chết để da.Người ta chết để tiếng".Hoặc là:"Trăm năm bia đá cũng mòn.Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ ".
"Chánh nhân thuyết tà pháp, tà qui chánh.Tà nhân thuyết chánh pháp, chánh qui tà".
Lời phú chúc của Đạt Ma cho Huệ Khả cũng nói:"Tiềm phù mật chứng ,Thiên vạn hữu dư,Nhữ đương xiển dương ,Vật khinh vị ngộ".
Hoà thượng Bảo Chí, Thập tứ khoa tụng:"Ngu nhân bị tha cấm hệ,Trí giả tạo tác giai không ,Thanh văn xúc đồ vi tuệ,Đại sĩ nhục nhãn viên thông".
Long Nha Hoà thượng, Cư độn tụng: “Ngộ liễu hoàn đồng vị ngộ nhân ,Vô tâm thắng bại tự an thần Tùng ,tiền cổ đức xưng bần đạo ,Hướng thử môn trung hữu kỷ nhân.
THIỀN SƯ Tín Học: “Có lợi tất có nhiễm,Có nhiễm tất có lợi,Có lợi có nhiễm,Bồ tát không làm ,Không lợi không nhiễm ,Bồ tát mới làm”.
T.S .thường chiếu:VẬT NGÃ LƯỠNG VONG,TÂM TÁNH VÔ THƯỜNG ,DỊ SANH DỊ DIỆT ,SÁT NA BẤT ĐÌNH ,THUỲ THỊ PHAN DUYÊN .SANH VI VẬT SANH ,DIỆT VI VẬT DIỆT,BỈ PHÁP SỞ ĐẮC THƯỜNG VÔ SANH DIỆT."Ta vật đều quên, Tâm tính vô thường ,Dễ sinh dễ diệt ,Giây phút không ngừng, Ai kẻ vin bắt ? Sinh thì vật sinh ,Diệt thì vật diệt ,Pháp kia có được ,Thường không sinh diệt"
“VÔ OAN TRÁI BẤT THÀNH PHU PHỤ, VÔ TIỀN CĂN BẤT THÀNH PHỤ TỬ”.
HoàThượng Bố Đại:
Thủ bả thanh ương sáp mãn điền,
Đê đầu tiện kiến thủy trung thiên,
Tâm địa thanh tịnh phương vi đạo,
Thối bộ nguyên lai thị hướng tiền。
Kinh A Hàm:
Dục tri tiền thế nhân,
Đương kim thọ giả thị.
Yếu tri lai thế quả,
kim sanh tác giả thị.
Âm:
Như nhân ẩm thủy Lãnh noãn tự tri.
Âm:
Vô ma khảo bất thành đại đạo
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Phó Đại Sĩ :
Danh trung vô hữu nghĩa,
Nghĩa thượng phục vô danh,
Trí nhân tâm tự giác
Ngu giả ngoại cầu thanh.
Phó Đại Sỉ:
Thí mạng như sa số,
Nhân thiên nghiệp chuyển thâm,
Ký yểm bồ đề tướng,
Năng chướng Niết bàn tâm .
Âm;
Phóc lạc phi tha vật,
Tung hoành bất thị trần.
Sơn hà cập đại địa,
Toàn lộ pháp vương thân.
Nghĩa:
Tay cầm mạ xanh cấy khắp ruộng,
Cúi đầu thì thấy trời trong nước,
Tâm địa thanh tịnh mới là đạo,
Lùi bước vốn là hướng lên phía trước.
Nghĩa :
Muốn biết kiếp trước mình đã làm gì,
Hãy nhìn cuộc sống của mình hiện tại.
Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao,
Hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.
Nghĩa:
như người uống nước,nóng lạnh tự biết
Nghĩa :
Người không sương gió khó thành công
Người không khổ đau sao ngộ đạo.
Nghĩa:
Trong tên không có nghĩa,
Trên nghĩa lại không tên,
Người trí tâm tự giác,
Kẻ ngu đuổi theo tiếng .
Nghĩa:***
Thí mạng như số cát,
Nghiệp trời người sâu thêm,
Đã che tướng bồ đề,
Tâm Niết bàn bị lấp.
Nghĩa;
Đánh rơi không vật khác,
Dọc ngang chẳng phải trần.
Núi sông cùng quả đất,
Toàn lộ pháp vương thân.
Khổng Tử: "Cổ chi dục minh minh dức ư thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trì kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia giả, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm. Dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật."
Nghĩa: "Các vị vua thuở xưa muốn làm cho cái đức của mình tỏ sáng ra trong thiên hạ, trước phải lo sửa trị nước mình. Muốn sửa trị nước mình, thì phải tề gia trước. Muốn tề gia thì phải tu thân trước. Muốn tu thân thì phải làm cho ý mình trở nên thành thật. Muốn làm cho ý mình trở nên thành thật phải có tri thức chu đáo. Muốn có tri thức chu đáo ắt phải nghiên cứu sự vật."
Khổng Tử:"Vật cách, nhi hậu tri chí. Tri chí, nhi hậu ý thành. Ý thành, nhi hậu tâm chính. Tâm chính, nhi hậu thân tu. Thân tu, nhi hậu gia tề. Gia tề, nhi hậu quốc trị. Quốc trị, nhi hậu thiên hạ bình."
Nghĩa: "Khi đã nghiên cứu sự vật, cái tri thức mới được chu đáo. Cái tri thức được chu đáo, cái ý mình mời thành thật. Cái ý mình đã thành thật, lòng dạ mình mới ngay thẳng. Lòng dạ mình đã ngay thẳng mới tu tập lấy mình được. Đã tu tập lấy mình được, thì mới sắp đặt nhà cửa cho chỉnh tề. Nhà cửa đã chỉnh tề, thì mới sửa trị nước được. Nước đã sửa trị, thiên hạ mới bình an."
Khổng Tử: "Tự Thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn." Nghĩa: "Từ bậc Thiên tử lần xuống chí hạng bình dân, ai nấy đều phải lấy sự tu tập lấy mình làm gốc."
Khổng Tử : "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri. Thị tri giã."Nghĩa: "Biết thì bảo là biết, không biết thì bảo là không biết. Như vậy mới là biết thật."
Khổng Tử: "Học nhi bất tư, tắc võng; tư nhi bất học, tắc đãi."Nghĩa: "Học mà chẳng chịu suy nghĩ thì chẳng được thông minh. Suy nghĩ mà chẳng chịu học, thì lòng dạ chẳng yên ổn."