佛說八大人覺經
後漢安息國三藏安世高譯
Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh
Hậu Hán An Tức quốc Tam tạng An Thế Cao dịch
為佛弟子,常於晝夜,至心誦念,八大人覺
Vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ,chí tâm tụng niệm, Bát Đại Nhân Giác.
Là đệ tử của Đức Phật thì ngày cũng như đêm, chí thành đọc tụng và quán niệm tám điều giác ngộ của Bậc Đại Nhân.
Đệ nhất giác ngộ
Thế gian vô thường
Quốc độ nguy thuý
Tứ đại khổ không
Ngũ ấm vô ngã
Sanh diệt biến dị
Hư nguỵ vô chủ
Tâm thị ác nguyên
Hình vi tội tẩu
Như thị quán sát
Tiệm ly sanh tử.
Đệ nhị giác tri
Đa dục vi khổ
Sinh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.
Đệ tam giác tri
Tâm vô yểm túc
Duy đắc đa cầu
Tăng trưởng tội ác
Bồ tát bất nhĩ
Thường niệm tri túc
An bần thủ đạo
Duy tuệ thị nghiệp .
Đệ tứ giác tri
Giải đãi đoạ lạc
Thường hành tinh tấn
Phá phiền não ác
Tồi phục tứ ma
Xuất ấm giới ngục.
Đệ ngũ giác ngộ
Ngu si sinh tử
Bồ tát thường niệm
Quảng học đa văn
Tăng trưởng trí tuệ
Thành tựu biện tài
Giáo hóa nhất thiết
Tất dĩ đại lạc.
Đệ lục giác tri
Bần khổ đa oán
Hoạnh kiết ác duyên
Bồ-tát bố thí
Đẳng niệm oán thân
Bất niệm cựu ác
Bất tắng ác nhơn .
Đệ thất giác ngộ
Ngũ dục quá hoạn
Tuy vi tục nhân
Bất nhiễm thế lạc
Thường niệm tam y
Ngõa bát pháp khí
Chí nguyện xuất gia
Thủ đạo thanh bạch
Phạm hạnh cao viễn
Từ bi nhất thiết
Đệ bát giác tri :
Sinh tử xí nhiên
Khổ não vô lượng
Phát đại thừa tâm
Phổ tế nhất thiết
Nguyện đại chúng sinh
Thọ vô lượng khổ (Bạt)
Linh chư chúng sinh
Tất cánh đại lạc
Giác ngộ thứ nhất:
Thế gian vô thường
Đất nước mong manh
Bốn đại khổ, không
Năm uẩn vô ngã
Sanh diệt thay đổi
Không có thực thể
Tâm là nguồn ác
Thân là rừng tội
Quán thấy như trên
Vẫy chào sinh tử.
Giác ngộ thứ hai:
Tham nhiều khổ nhiều
Sanh tử do dục
Thực tập ít muốn
Trải nghiệm vô vi
Thân tâm tự tại.
Giác ngộ thứ ba:
Tâm không biết đủ
Tham muốn không dừng
Tội lỗi càng tăng
Bồ tát khác người
Tâm luôn biết đủ
Giữ đạo thanh cao
Trí tuệ số một.
Giác ngộ thứ tư:
Lười biếng sa đọa
Tinh tiến hướng thiện
Chuyển hóa phiền não
Dẹp sạch bốn ma
Thoát ngục ấm, giới.
Giác ngộ thứ năm:
Ngu nên sinh tử
Bồ-tát chính niệm
Học rộng hiểu nhiều
Trí tuệ ngời sáng
Tài năng vô tận
Giáo hóa chúng sinh
Được an vui lớn.
Giác ngộ thứ sáu:
Nghèo hay oán trách
Gặp nhiều nghịch duyên
Bồ-tát bố thí
Không chút phân biệt
Không ghìm thù xưa
Chẳng ghét người ác.
Giác ngộ thứ bảy:
Năm dục gây hoạ
Sống giữa dòng đời
Không nhiễm thói tục
Chỉ mặc ba y
Mỗi ngày đi bát
Chí nguyện xuất trần
Giữ đạo thanh cao
Giới đức ngời sáng
Thương yêu muôn loài.
Giác ngộ thứ tám:
Sinh tử bừng cháy
Khổ não vô cùng
Phát tâm đại thừa
Cứu độ tất cả
Thay thế chúng sinh
Chịu các đau khổ (rứt )
Giúp cho chúng sinh
Đạt được niết-bàn.
如此八事。乃是諸佛,菩薩大人之所覺悟
Như thử bát sự, nãi thị chư Phật, Bồ-tát đại nhân, chi sở giác ngộ /Tám điều nói trên là những điều giác ngộ của chư Phật, Các vị Bồ Tát và các Bậc Đại Nhân
精進行道慈悲修慧,乘法身船至涅槃岸,復還生死度脫眾生
Tinh tiến hành đạo, từ bi tu tuệ, thừa pháp thân thuyền, chí Niết-bàn ngạn, phục hoàn sanh tử, độ thoát chúng sanh. /Các Ngài đã tinh tấn hành đạo, tu tập từ bi và trí tuệ, nương thuyền pháp thân mà lên bờ Niết Bàn, rồi lại trở về cõi sanh tử để giúp chúng sanh được giải thoát
以前八事開導一切,令諸眾生覺生死苦,捨離五欲修心聖道
Dĩ tiền bát sự, khai đạo nhất thiết, linh chư chúng sanh, giác sanh tử khổ, xả ly ngũ dục, tu tâm Thánh đạo./Các ngài lấy tám điều giác ngộ này mà chỉ dẫn chúng sanh, Làm cho mọi chúng sanh giác ngộ được nỗi khổ sanh tử, buông bỏ năm dục lạc hướng tâm về con đường Thánh
進趣菩提。速登正覺,永斷生死。常住快樂
Tiến thú bồ-đề, tốc đăng chánh giác, vĩnh đoạn sanh tử, thường trụ khoái lạc./Hướng đến giác ngộ, mau lên chánh giác, vĩnh viễn đoạn trừ sanh tử, thường ở trong sự an lạc Niết Bàn ./.