Thiền sư Huyền Giác nói “Sanh tử sự đại, vô thường tấn tốc”. Ngài Thạch Sương Từ Minh lại nói “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”.
Thiền sư Thạch Sương Từ Minh nói “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”. Người đạt đạo sống với cái không sanh tử, khi đó sanh cũng như mùa đông được chiếc chăn đắp lên cho ấm, có gì mà sợ. Còn khi bỏ thân tứ đại này để trở về Pháp thân thanh tịnh cũng như mùa nực cởi chiếc áo, mát mẻ có gì mà lo. Nhưng đối với chúng ta sanh tử là sự đại, nếu chúng ta chưa đạt đạo thì “Sanh tử sự đại” có giá trị. Chúng ta thấy hai câu trên đều đúng. Người tu mà chưa đạt đạo thì sanh tử là việc lớn, khi đạt đạo rồi thấy sanh tử là trò chơi.
THIỀN SƯ PHÁP ĐĂNG - Hiệu Thái Khâm:
Đạo sư xưa nói ?Bảo sở chẳng xa cần phải tiến tới?. Khi đến thành rồi, lại nói ?do ta hóa ra? kinh p HOA
THIỀN Sư TỈNH NIỆM:
Bạch ngân thế giới kim sắc thân
Tình dữ phi tình cộng nhất chân
Minh ám tận thời câu bất chiếu
Nhật luân ngọ hậu kiến toàn thân.
THIỀN SƯ VĂN ÍCH - Hiệu Tịnh Huệ:
Hoa Nghiêm lục tướng nghĩa
Đồng trung hoàn hữu dị
Dị nhược dị ư đồng
Toàn phi chư Phật ý.
Chư Phật ý tổng biệt.
Hà tằng hữu đồng dị.
Nam tử thân trung nhập định thời.
Nữ tử thân trung bất lưu ý.
Bất lưu ý, tuyệt danh tự.
Vạn tượng minh minh vô lý sự.
THIỀN SƯ QUI TỈNH :
Thiềm đầu thủy đích
Phân minh lịch lịch
Đả phá càn khôn
Đương hạ tâm tức.
QUỐC SƯ ĐỨC THIỀU :
Thông huyền phong đảnh
Bất thị nhân gian
Tâm ngoại vô pháp,
mãn mục thanh sơn.
Hương Nghiêm Trí Nhàn:
Khứ niên bần vị thị bần
Kim niên bần thủy thị bần
Khứ niên bần do hữu trác chùy chi địa
Kim niên bần chùy dã vô.
Âm:
Liễu thân hà tự liễu tâm hưu,
Liễu đắc tâm hề thân bất sầu.
Nhược dã thân tâm câu liễu liễu,
Thần tiên hà tất cánh phong hầu.
T.S PHẬT ẤN:
Nê ngưu mạn hướng phong tiền khứu
Khô mộc vô đoan tuyết lý xuân
Đối hiện đường đường câu bất thức
Thái bình thời đại tự do thân.
THIỀN Sư TỈNH NIỆM:
Khinh khinh đạp địa khủng nhân tri
Ngữ tiếu phân minh cánh mạc nghi
Trí giả chỉ kim mãnh đề thủ
Mạc đãi thiên minh thất khước kê.
TUỆ TRUNG THƯỢNG SỸ :
Tùng vô hiện hữu, hữu vô thông
Hữu hữu vô vô ất cánh đồng
Phiền não Bồ-đề nhân bất nhị
Chân Như vọng nghiệp tổng giai không
Thân như huyễn kính, nguyệt như ảnh
Tâm Nhược thanh phong, tính nhược bồng
Hưu vấn tử sinh ma dữ Phật
Chúng tinh củng bắc, thủy triều đông.
Cổ Đức nói rằng:
Ngã tâm bổn dữ Phật tâm tề
Khoáng kiếp phiêu trầm chỉ vị mê
Bồ Đề Phạn ngữ Đường ngôn giác
Tâm tịch nhi tri thị Bồ Đề
Dịch:
Thế giới bạch ngân thân sắc vàng
Tình với phi tình một tánh chân
Tối sáng hết rồi đều chẳng chiếu
Vầng ô vừa xế thấy toàn thân.
Dịch:
Nghĩa sáu tướng Hoa Nghiêm
Trong đồng lại có dị
Dị nếu dị nơi đồng
Toàn chẳng phải ý Phật.
Ý chư Phật thảy biệt
Đâu từng có đồng dị?
Trong thân kẻ nam khi vào định
Trong thân người nữ chẳng lưu ý,
Chẳng lưu ý, bặt danh tự
Vạn tượng rõ ràng không lý sự.
Dịch
Giọt mưa trước thềm
Rành rẽ rõ ràng
Đập nát càn khôn
Liền đó tâm dứt.
Nghĩa
Thấu huyền chót đảnh
Chẳng phải nhân gian
Ngoài tâm không pháp,
Đầy mắt núi xanh.
Dịch:
Năm ngoái nghèo chưa là nghèo
Năm nay nghèo mới là nghèo
Năm ngoái nghèo còn đất để cắm
Năm nay nghèo, không cả dùi cắm.
Nghĩa:
Thân kia nào quí được như tâm,
Tâm đã ngộ rồi nhẹ cái thân.
Ham gì trọn vẹn hai đàng nhỉ,
Là Phật rồi, phong chức có cần?
Dịch:
Nằm dưới vũng bùn trâu ngửi gió
Không có cây khô trong tuyết tươi
Rành rành trước mắt đều chẳng biết
Vào lúc thái bình thân tự do.
Dịch:
Bước chân nhè nhẹ ngại người hay
Cười nói rõ ràng có gì nghi
Kẻ trí hiện nay gắng gìn giữ
Chớ đợi sáng mai gà mất đi.
Nghĩa là:
Từ vô hiện hữu, hữu vô thông,
Hữu hữu, vô vô, ắt hẳn đồng,
Phiền não, Bồ-đề vốn không khác,
Chân Như, vọng niệm thảy đều không.
Thân như gương ảo, như bóng nguyệt,
Tâm tợ gió thanh, tính cỏ bồng,
Đừng hỏi tử sinh, ma và Phật,
Muôn sao chầu Bắc, nước chầu đông.
Tức là:
Tâm ta tâm Phật vốn không hai,
Nhiều kiếp nổi chìm bởi tại mê,
Tiếng Phạn Bồ Đề, Tàu gọi giác,
Tâm tịch mà tri ấy Bồ Đề.