PHẦN MỞ ĐẦU: LY DỤC TỊCH TĨNH
CHÁNH VĂN:
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc Dã Uyển trung, chuyển Tứ Đế pháp luân, độ Kiều Trần Như đẳng ngũ nhân, nhi chứng đạo quả. Phục hữu tì kheo sở thuyết chư nghi, cầu Phật tấn chỉ. Thế Tôn giáo sắc, nhất nhất khai ngộ, hợp chưởng kính nặc, nhi thuận tôn sắc.
NGHĨA:
Sau khi thành đạo Đức Thế Tôn khởi tư duy “Ly Dục Tịch Tĩnh là pháp môn tối thắng.” Ngài trụ trong Đại thiền định và hàng phục ma quân. Sau đó đến Lộc Dã Uyển chuyển pháp luân Tứ Đế, độ năm anh em Kiều Trần Như chứng đạo quả. Liền khi ấy có một vị Tỳ Kheo nói những điều nghi ngờ của mình, cầu Phật chỉ bảo và Thế Tôn giảng giải làm cho mọi người được khai ngộ. Các vị đều chấp tay vâng lời Phật dạy.
CHƯƠNG 1: THỨC TÂM ĐẠT BỔN
CHÁNH VĂN.
Phật ngôn: “Từ thân xuất gia, thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp, danh viết Sa Môn. Thường hành nhị bách ngũ thập giới, tấn chỉ thanh tịnh, vi tứ chân đạo hạnh thành A La Hán. A La Hán giả năng phi hành biến hóa, khoáng kiếp thọ mạng, trụ động thiên địa. Thứ vi A Na Hàm. A Na Hàm giả thọ chung thần linh, thượng thập cửu thiên, chứng A La Hán. Thứ vi Tư Đà Hàm. Tư Đà Hàm giả nhất thượng nhất hoàn, tức đắc A La Hán. Thứ vi Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn giả thất tử thất sanh, tiện chứng A La Hán. Ái dục đoạn giả như tứ chi đoạn bất phục dụng chi.”
NGHĨA:
Đức Phật dạy: “Người xuất gia từ giã người thân đi tu phải biết rõ bản tâm (đạt được đến nguồn gốc của bản thể), thấu hiểu được pháp vô vi, gọi đó là Sa môn. Thường hành trì hai trăm năm mươi giới, sống đời thanh tịnh, tu tập Tứ Thánh Đế, thành tựu quả vị A La Hán. A La Hán là vị có thể phi hành, biến hóa và thọ mạng vô cùng; khi ông dừng thì đất trời chuyển động. Thứ đến là quả A Na Hàm, vị chứng quả A Na Hàm sau khi mạng chung thần thức sinh lên từng trời thứ mười chín và chứng quả A La Hán ở đó. Kế đến là Tư Đà Hàm, người chứng quả Tư Đà Hàm còn một lần sinh lên cõi trời, một lần xuống nhân gian chứng quả A La Hán. Sau cùng là quả Tu Đà Hoàn, bảy lần sinh, bảy lần chết mới chứng quả A La Hán. Người chứng quả A La Hán là người đã đoạn sạch ái dục như tứ chi bị chặt lìa không thể dùng lại được.”
CHƯƠNG 2: NGỘ VÔ VI PHÁP
CHÁNH VĂN.
Phật ngôn: “Xuất gia Sa môn giả, đoạn dục khử ái, thức tự tâm nguyên. Đạt Phật thâm lý, ngộ vô vi pháp. Nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu. Tâm bất hệ Đạo, diệc bất kiết nghiệp. Vô niệm vô tác, phi tu phi chứng. Bất lịch chư vị, nhi tự sùng tối. Danh chi vi Đạo.”
NGHĨA: Đức Phật dạy: “Người xuất gia làm Sa môn, cắt bỏ ái dục, biết được nguồn tâm của mình. Đạt được lý mầu của Phật, nhận ra pháp Vô vi. Trong tâm không sở đắc, bên ngoài không mong cầu. Tâm không ràng buộc nơi đạo, cũng không tạo nghiệp. Vô niệm vô tác, phi tu phi chứng. Không cần trải qua các quả vị mà tự siêu việt, gọi đó là Đạo.”
CHƯƠNG 3: HIỆN HẠNH SA MÔN
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Thế trừ tu phát, nhi vi Sa môn. Thọ đạo pháp giả, khử thế tư tài, khất cầu thủ túc. Nhật trung nhất thực, thọ hạ nhất túc. Thận vật tái hỹ. Sử nhân ngu tệ giả, ái dữ dục dã.”
NGHĨA: Đức Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc làm một vị Sa môn, nhận giáo pháp để thực tập. Bỏ tất cả sở hữu vật chất, của báu thế gian. Chỉ xin ăn vừa đủ, giữa một ngày chỉ ăn một bữa, dưới tán cây chỉ ngủ một đêm thôi. Cẩn thận không tham đắm thêm, thế là đủ. Điều khiến cho người ta u mê và thối đọa, che lấp con đường tu tập đó là ái và dục.”
CHƯƠNG 4 : CON ĐƯỜNG THIỆN ÁC
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Chúng sanh dĩ thập sự vi thiện, diệc dĩ thập sự vi ác. Hà đẳng vi thập? Thân tam, khẩu tứ, ý tam. Thân tam giả: sát, đạo, dâm. Khẩu tứ giả: lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ. Ý tam giả: tật, khuể, si.”
Như thị thập sự, bất thuận Thánh Đạo, danh Thập Ác Hạnh. Thị ác nhược chỉ, danh Thập Thiện Hạnh nhĩ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Chúng sanh lấy mười việc để làm thiện, và cũng lấy mười việc nầy để làm ác. Thế nào gọi là mười việc? Mười việc là thân có ba, miệng có bốn, ý có ba. Ba điều của thân một là sát sanh, hai trộm cắp, ba là dâm dục. Bốn của miệng là nói hai lưỡi, nói dối, nói lời hung dữ, và nói lời thêu dệt. Ý có ba là tham lam, hờn giận và si mê. Mười việc như thế không thuận Thánh đạo gọi là mười hành vi ác, mười hành vi ác nầy nếu dứt thì gọi là mười hành vi thiện.”
CHƯƠNG 5 :LÀM MỚI THÂN TÂM
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Nhân hữu chúng quá, nhi bất tự hối, đốn tức kỳ tâm, tội lai phó thân, như thủy quy hải, tiệm thành thâm quảng. Nhược nhân hữu quá, tự giải tri phi, cải ác hành thiện, tội tự tiêu diệt, như bệnh đắc hạn, tiệm ĐẮC thuyên tổn nhĩ!”
NGHĨA: Đức Phật dạy: “Người có lỗi lầm mà không tự sám hối để sớm chấm dứt tâm tạo ấy, thì tội lỗi càng chồng chất vào thân như nước chảy về biển dần dần trở nên sâu rộng. Nếu người có lỗi lầm mà biết nhận lỗi, bỏ ác làm lành thì tội tự diệt, như bệnh được đổ mồ hôi, dần dần sẽ khỏi bệnh.”
CHƯƠNG 6 - CHƯƠNG 7 - CHƯƠNG 8: TU HẠNH NHẪN NHỤC
CHÁNH VĂN.CHƯƠNG 6 .Phật ngôn: “Ác nhân văn thiện, cố lai nhiễu loạn giả. Nhữ tự cấm tức, đương vô sân trách. Bỉ lai ác giả nhi tự ác chi.”
NGHĨA: Đức Phật dạy: “Người ác nghe ai làm việc thiện thì họ đến phá phách quấy rối.” “Các ông hãy biết ngăn ngừa và dừng lại, đừng có nóng giận, đừng có oán trách.”“Người đem việc ác đến tự họ sẽ nhận lại quả báo ác .”
CHƯƠNG 7 .. Phật ngôn: “Hữu nhân văn ngô thủ Đạo, hành đại nhân từ, cố trí mạ Phật. Phật mặc bất đối. Mạ chỉ. Vấn viết: Tử dĩ lễ tùng nhân, kỳ nhân bất nạp, lễ qui tử hồ? Đối viết: Quy hỹ.”
Phật ngôn: “Kim tử mạ ngã, ngã kim bất nạp. Tử tự trì họa, quy tử thân hỉ. Du hưởng ứng thinh, ảnh chi tùy hình, chung vô miễn ly. Thận vật vi ác.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Có người nghe ta giữ đạo và tu tập hạnh đại từ. Cho nên quyết lòng đến mắng Phật. Đức Phật im lặng không trả lời. Người kia dừng mắng thì Đức Thế Tôn hỏi: “Ông đem lễ đến tặng cho người, nếu người ta không nhận, lễ đó có về ông không?” Người kia đáp: “Về chứ.”
Đức Phật dạy: “Ông hôm nay mắng ta, ta không đón nhận thì ông tự chuốc lấy họa về thân của ông. Giống như vang theo tiếng, như bóng theo hình, không có sai chạy một mảy may, cẩn thận chớ có làm ác.”
- {Tập I [07] Chương Bảy: Tương Ưng Bà La Môn Phẩm A-La-Hán Thứ Nhất Phỉ Báng }
- “Nếu ông đem tặng một món quà cho người khác, người ta không nhận thì món quà đó thuộc về ai?”.
Người đàn ông rất ngạc nhiên khi phải trả lời một câu hỏi kỳ lạ. Ông nói: “Tất nhiên nó sẽ thuộc về tôi. Vì đó là món quà của tôi”.[ Lược truyện Ðức Phật Thích Ca , 23. Người đàn ông thô lỗ ]
CHƯƠNG 8 .Phật ngôn: “Ác nhân hại hiền giả, du ngưỡng thiên nhi thóa, thóa bất chí thiên, hoàn tùng kỷ đọa. Nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn bộn kỷ thân. Hiền bất khả hủy, họa tất diệt kỷ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người ác hại người hiền. Giống như mình ngửa mặt lên trời mà phun nước miếng, nước miếng không tới trời mà lại rơi xuống thân ta. Giống như mình tung bụi ngược gió, bụi không đến người kia, trở lại dính vào mình. Cũng như thế, người hiền chúng ta không thể đụng chạm họ được. Bôi lọ hay làm gì gây tai họa cho họ, quả ác sẽ đến hủy diệt thân ta.”
Tương Ưng Bộ kinh, tập 1, III. Phẩm Kiếm (S.I,13) II. Xúc Chạm pdf Page 16, do Hòa thượng Minh Châu dịch .
Kệ viết :
Không xúc, không có chạm,
Có xúc, thời có chạm,
Nên hại người không hại,
Tức có xúc, có chạm,
Ai hại người không hại,
Người tịnh, không ô nhiễm,
Kẻ ngu hái quả ác,
Như ngược gió tung bụi.
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Xin dẫn câu chuyện tương ứng sau đây trong kinh Tạp A Hàm,
tập 1,trang 191,ấn bản năm 1995,do nhị vị Hòa thượng Thiện Siêu và Hòa thượng Thanh Từ dịch. Có ghi :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật trú tại phía đông nước Xá vệ, trong giảng đường Lộc tử mẫu .
Bấy giờ sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát vào thành Xá vệ khất thực, lúc ấy Bà la môn Kiên mạ bà la đậu bà giá, vừa thấy Thế Tôn liền phát ra những lời thô ác, bất thiện, sân si, trách mắng và hốt bụi đất ném vào Thế Tôn, khi ấy có gió thổi ngược, bụi kia bay ngược lại dính đầy người ông ta .
Thế Tôn nói kệ :
Nếu người không sân hận
Có mạ nhục cách mấy
Thanh tịnh không dính nhơ
Ác ấy trở về mình
Như người tung bụi kia
Ngược gió bám đầy mình.
CHƯƠNG 9: BÁC HỌC ĐA VĂN
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Bác văn ái Đạo, Đạo tất nan hội. Thủ chí phụng Đạo, kỳ Đạo thậm đại.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “rộng học, nhiều nghe yêu mến Đạo, Đạo ắt khó thể nhập. Giữ chí và sống được với đạo thì mới có thể thành tựu được quả vị, thành tựu an lạc, thành tựu hạnh phúc và Niết Bàn.”
CHƯƠNG 10 - CHƯƠNG 11:TÙY HỶ VÀ CÚNG DƯỜNG
CHÁNH VĂN.CHƯƠNG10 .Phật ngôn: “Đỗ nhân thi đạo, trợ chi hoan hỷ, đắc phước thậm đại. Sa Môn vấn viết: Thử phước tận hồ? Phật ngôn: Thí như nhất cự chi hỏa, sổ thiên bách nhân các dĩ cự lai phân thủ, thục thực trừ minh. Thử cự như cố. Phước diệc như chi.”
NGHĨA:Đức Đức Phật dạy: “Thấy người thực hành bố thí, hoan hỷ giúp đỡ thì được phước rất lớn.” Có vị Sa môn hỏi Phật: “Phước nầy có hết không?” Phật đáp: “Ví như lửa của ngọn đuốc vài trăm nghìn người đem đuốc đến mồi lửa về để nấu ăn hay để thắp sáng, lửa ngọn đuốc nầy vẫn như cũ. Phước của người hoan hỷ hỗ trợ cho người thực hành bố thí cũng vậy.”
CHƯƠNG 11 .Phật ngôn: “Phạn ác nhân bách, bất như phạn nhất thiện nhân. Phạn thiện nhân thiên, bất như phạn nhất trì ngũ giới giả. Phạn trì ngũ giới giả vạn, bất như phạn nhất Tu Đà Hoàn. Phạn bách vạn Tu Đà Hoàn, bất như phạn nhất Tư Đà Hàm. Phạn thiên vạn Tư Đà Hàm, bất như phạn nhất A Na Hàm. Phạn nhất ức A Na Hàm, bất như phạn nhất A La Hán. Phạn thập ức A La Hán, bất như phạn nhất Bích Chi Phật. Phạn bách ức Bích Chi Phật, bất như phạn nhất tam thế chư Phật. Phạn thiên ức tam thế chư Phật, bất như phạn nhất vô niệm vô trụ vô tu vô chứng chi giả.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một nghìn người thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới ăn. Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn, không bằng cho một vị Tu Đà Hoàn ăn. Cho mười vạn vị Tu Đà Hoàn ăn, không bằng cho một vị Tư Đà Hàm ăn. Cho một nghìn vị Tư Đà Hàm ăn, không bằng cho một vị A Na Hàm ăn. Cho một ức vị A Na Hàm ăn, không bằng cho một vị A La Hán ăn. Cho mười ức vị A La Hán ăn, không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn. Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn, không bằng cho một vị Phật ăn. Và cho một nghìn ức vị Phật ba đời ăn, không bằng cho một vị vô niệm, vô trụ, vô tu vô chứng ăn.”
- (Trung bộ tập 3 (142) Kinh Phân biệt cúng dường) {Tăng Chi Bộ Chương IX - Chín Pháp II. Phẩm Tiếng Rống Con Sư Tử "(X) (20) Velàma" Phẩm 01-03 }
CHƯƠNG 12: VƯỢT QUA KHÓ KHĂN
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Nhân hữu nhị thập nan. Bần cùng bố thi nan. Hào quý học đạo nan. Khí mạng tất tử nan. Đắc đỗ Phật kinh nan. Sanh trị Phật thế nan. Nhẫn sắc nhẫn dục nan. Kiến hảo bất cầu nan. Bị nhục bất sân nan. Hữu thế bất lâm nan. Xúc sự vô tâm nan. Quảng học bác cứu nan. Trừ diệt ngã mạn nan. Bất khinh vị học nan. Tâm hành bình đẳng nan. Bất thuyết thị phi nan. Hội thiện tri thức nan. Kiến tánh học đạo nan. Tùy hóa độ nhân nan. Đỗ cảnh bất động nan. Thiện giải phương tiện nan.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Làm người có hai mươi điều khó: Nghèo nàn bố thí là khó. Giàu sang học đạo là khó. Bỏ thân mạng quyết chết là khó. Thấy được Kinh Phật là khó. Sanh vào thời có Phật là khó. Nhẫn nhục là khó. Thấy tốt không cầu là khó. Bị nhục không tức là khó. Có thế lực không dựa là khó. Gặp việc vô tâm là khó. Học rộng nghiên cứu sâu là khó. Diệt trừ ngã mạn là khó. Không khinh người chưa học là khó. Thực hành tâm bình đẳng là khó. Không nói chuyện phải trái là khó. Gặp được thiện trí thức là khó. Thấy tánh học đạo là khó. Tùy duyên hóa độ người là khó. Thấy cảnh tâm bất động là khó. Khéo biết phương tiện là khó.”
CHƯƠNG 13TỊNH TÂM THỦ CHÍ
CHÁNH VĂN. Sa Môn vấn Phật: “Dĩ hà nhân duyên đắc tri túc mạng, hội kỳ chí đạo?”
Phật ngôn: “Tịnh tâm thủ chí khả hội chí đạo. Thí như ma kính, cấu khử minh tồn, đoạn dục vô cầu, đương đắc túc mạng.”
NGHĨA:Sa môn hỏi Phật: “Do nguyên nhân gì mà biết được đời trước và đạt được sự cao tột của Đạo?”
Đức Phật dạy: “Đoạn trừ tham dục, lòng không mong cầu thì sẽ có khả năng biết được đời trước. Thanh tịnh tâm tư, giữ vững ý chí thì có thể đạt được chỗ cao tột của Đạo, như lau gương hết bụi thì ánh sáng hiển lộ.”
CHƯƠNG 14 - CHƯƠNG 15HÀNH ĐẠO THỦ CHÂN
CHÁNH VĂN.CHƯƠNG 14 .Sa Môn vấn Phật: “Hà giả vi thiện? Hà giả tối đại? Phật ngôn: Hành đạo thủ chân giả thiện. Chí dữ đạo hợp giả đại.”
NGHĨA:Có một vị Sa môn hỏi Phật: “Điều gì là thiện, điều gì là lớn?” Đức Phật dạy: “Thực hành chánh đạo, giữ sự chân thật là thiện, chí nguyện hợp với đạo là lớn.”
CHƯƠNG 15 .“Sa Môn vấn Phật: “ Hà giả đa lực? Hà giả tối minh. Phật ngôn: Nhẫn nhục đa lực, bất hoài ác cố, kiêm gia an kiện. Nhẫn giả vô ác, tất vi nhân tôn. Tâm cấu diệt tận, tịnh vô hà uế, thị vi tối minh. Vị hữu thiên địa, đãi ư kim nhật, thập phương sở hữu. Vô hữu bất kiến, vô hữu bất tri, vô hữu bất văn, đắc nhất thiết trí, khả vị minh hỷ.”
NGHĨA: Có vị Sa môn hỏi Phật. “Điều gì là mạnh nhất, điều gì là sáng nhất?” Đức Phật dạy: “Nhẫn nhục là mạnh nhất, vì không chứa sự ác tâm nên tăng sự an ổn. Người nhẫn nhục không làm điều gì ác, được mọi người tôn kính. Tâm ô nhiễm đã được đoạn tận, không còn dấu vết gì gọi là sáng nhất. Vì tất cả mọi vật trong mười phương từ vô thỉ thuở chưa có đất trời cho đến ngày nay, không vật gì là không thấy, không vật gì là không biết, không vật gì là không nghe. Đạt được Nhất thiết trí như vậy gọi là sáng nhất.”
- (Tương đương với đây là tám sức mạnh.(Tăng Chi Bộ tập 3,Chương VIII - Tám Pháp III. Phẩm Gia Chủ Phẩm 01-03 Pdf Page 706 ) (-Phật Di Giáo kinh, phẩm đối trị sân nhuế, trong tập Phật Tổ ngũ kinh,trang 358,ấn hành năm 1998, do Hòa thượng Thích Giải Năng tự Hoàn Quan dịch .)
CHƯƠNG 16XẢ LY ÁI DỤC
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Nhân hoài ái dục bất kiến đạo giả. Thí như trừng thủy, trí thủ giảo chi. Chúng nhân cộng lâm, vô hữu đỗ kỳ ảnh giả. Nhân dĩ ái dục giao thố, tâm trung trọc hưng, cố bất kiến đạo. Nhữ đẳng Sa Môn, đương xả ái dục. Ái dục cấu tận, đạo khả kiến hỷ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người giữ ái dục trong lòng thì không thấy được đạo. Thí dụ như nước trong bị khuấy động, người ta đến soi không thấy bóng của mình. Người bị ái dục khuấy động tâm ô nhiễm nổi lên nên không thấy được Đạo. Các thầy Sa môn cần phải xả ly ái dục. Ái dục hết rồi, mới có thể thấy Đạo được.
- (Tương đương với Tăng Chi Bộ kinh, tập 1, do Hòa thượng Minh Châu dịch. V. Phẩm Ðặt Hướng và Trong Sáng pdf Page 9 of 973)
CHƯƠNG 17THẮP SÁNG TRÍ TUỆ
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Phù kiến đạo giả. Thí như trì cự nhập minh thất trung, kỳ minh tức diệt nhi minh độc tồn. Học đạo kiến đế, vô minh tức diệt, nhi minh thường tồn hỷ”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người thấy được Đạo như người cầm đuốc đi vào trong nhà tối, bóng tối liền mất chỉ còn lại ánh sáng. Người học đạo mà thấy được chân lý thì vô minh liền diệt, chỉ còn lại trí tuệ.”
CHƯƠNG 18 SIÊU VIỆT NHỊ BIÊN
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Ngô pháp, niệm vô niệm niệm. Hành vô hành hạnh. Ngôn vô ngôn ngôn. Tu vô tu tu. Hội giả cận nhĩ, mê giả viễn hồ. Ngôn ngữ đạo đoạn. Phi vật sở câu. Sai chi hào ly, thất chi tu du.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Pháp của ta niệm mà không có người niệm và đối tượng niệm. Làm mà không còn người làm và đối tượng làm. Nói mà không có người nói và đối tượng nói. Tu mà không còn người tu và đối tượng tu. Người hiểu biết thì rất gần, kẻ mê thì rất xa. Dứt đường ngôn ngữ, không có vật gì ràng buộc. Sai chỉ một hào ly, mất liền tức khắc.”
CHƯƠNG 19 - CHƯƠNG 20 TAM PHÁP ẤN
CHÁNH VĂN.CHƯƠNG 19 .Phật ngôn: “Quán thiên địa, niệm phi thường. Quán thế giới, niệm phi thường. Quán linh giác, tức bồ đề. Như thị tri thức, đắc Đạo tật hỷ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Quán trời đất nghĩ là vô thường. Quán thế giới nghĩ là vô thường. Quán linh giác tức Bồ Đề. Hiểu biết như vậy thì đắc Đạo rất nhanh.”
CHƯƠNG 20 .Phật ngôn: “Đương niệm thân trung tứ đại, các tự hữu danh, đô vô ngã giả. Ngã ký đô vô, kỳ như huyễn nhĩ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Hãy quán chiếu tự thân được làm bằng tứ đại đất nước gió lửa, mỗi đại đều có tên riêng, không có ta ở bên trong. Ta đã không có thì tên của nó chỉ như huyễn hóa mà thôi.”
CHƯƠNG 21 - CHƯƠNG 22 THAM ĐẮM CÁC DỤC
CHÁNH VĂN.CHƯƠNG 21.Phật ngôn: “Nhân tùy tình dục, cầu ư thanh danh. Thanh danh hiển trước, thân dĩ cố hỷ. Tham thế thường danh, nhi bất học đạo, uổng công lao hình. Thí như thiêu hương, tuy nhân văn hương, hương chi tận hỹ. Nguy thân chi hỏa, nhi tại kỳ hậu.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người thuận theo lòng dục để mong được danh tiếng, khi mà danh tiếng vừa nổi thì thân đã mất rồi. Ham muốn danh tiếng thường tình mà không lo học Đạo chỉ uổng công phí sức mà thôi; giống như đốt hương, khi người ta ngửi được mùi thơm thì cây hương đã tàn rồi. Lửa tham danh tiếng còn di họa cho thân về sau.”
CHƯƠNG 22 .Phật ngôn: “Tài sắc ư nhân, nhân chi bất xả. Thí như đao nhẫn hữu mật, bất túc nhất xan chi mỹ. Tiểu nhi thỉ chi, tắc hữu cát thiệt chi hoạn.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Tiền tài và sắc đẹp rất khó buông xả, giống như một chút mật thoa trên lưỡi dao không đủ cho một bữa ăn ngon, thế mà kẻ liếm vào thì bị nạn đứt lưỡi.”
CHƯƠNG 23 - CHƯƠNG 24 - CHƯƠNG 25HỌA HẠI CỦA ÁI DỤC
CHƯƠNG 23 .CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Nhân hệ ư thê tử, xá trạch, thậm ư lao ngục. Lao ngục hữu tán thích chi kỳ. Thê tử vô viễn ly chi niệm. Tình ái ư sắc, khởi đạn khu trì. Tuy hữu hổ khẩu chi hoạn, tâm tồn cam phục. Đầu nê tự nịch, cố viết phàm phu. Thấu đắc thử môn, xuất trần La Hán.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người bị vợ con nhà cửa ràng buộc còn hơn lao ngục. Lao ngục còn được kỳ hạn được phóng thích. Còn đối với vợ con không có ý tưởng xa rời. Khi đã ham mê sắc đẹp, đâu có sợ gì, cho dù tai họa nơi miệng cọp lòng vẫn cam chịu. Tự dìm mình đắm chìm, gọi là phàm phu. Nếu ai vượt thoát cửa nầy gọi là kẻ xuất trần La Hán.”
CHÁNH VĂN.CHƯƠNG 24 .Phật ngôn: “Ái dục mạc thậm ư sắc, sắc chi vi dục, kỳ đại vô ngoại. Lại hữu nhất hỷ. Nhược sử nhị đồng, phổ thiên chi nhân, vô năng vi Đạo giả hỷ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Trong các thứ ái dục không có gì lớn và mạnh bằng sắc dục. Sự tham muốn sắc dục không có gì có thể sánh bằng. Cũng may chỉ có một thứ ấy mà thôi. Nếu có cái thứ hai bằng nó thì trong thiên hạ không có ai có thể tu được.
- “Tăng Chi Bộ Chương Một Pháp Phẩm 01-14,Phẩm Sắc
CHƯƠNG 25 .Phật ngôn: “Ái dục chi nhân, do như chấp cự, nghịch phong nhi hành, tất hữu thiêu thủ chi hoạn”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người ham mê ái dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất sẽ bị họa cháy tay.”
CHƯƠNG 26 QUÁN CHIẾU SỰ THỌ DỤNG
CHÁNH VĂN.: “Thiên thần hiến ngọc nữ ư Phật, dục hoại Phật ý. Phật ngôn: “Cách nang chúng uế, nhĩ lai hà vi? Khứ! Ngô bất dụng.” Thiên thần dũ kính, nhân vấn đạo ý. Phật vị giải thuyết, tức đắc Tu Đà Hoàn quả.”
NGHĨA:Có một vị Thần dâng cho Đức Thế Tôn một người con gái đẹp, muốn phá hoại tâm hạnh của Phật. Đức Phật bảo: “Cái túi da hôi thối kia, ngươi đến đây làm gì? Đi. Ta không dùng. Vị Thiên thần kia càng thêm cung kính, nhân đấy hỏi đạo lý. Đức Thế Tôn giảng dạy cho vị Thiên thần kia nghe, vị ấy chứng được quả Tu Đà Hoàn.”
CHƯƠNG 27 TRÔI VÀO BIỂN GIẢI THOÁT
CHÁNH VĂN. Phật ngôn: “Phù vi đạo giả du mộc tại thủy, tầm lưu nhi hành, bất xúc lưỡng ngạn. bất vi nhân thủ, bất vi quỷ thần sở già, bất vi hồi lưu sở trụ, diệc bất hủ bại. Ngô bảo thử mộc quyết định nhập hải. Học Đạo chi nhân, bất vi tình dục sở hoặc, bất vi chúng tà sở nhiễu, tinh tấn vô vi. Ngô bảo thử nhân tất đắc Đạo hỷ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người thực hành theo đạo như khúc gỗ trên mặt nước trôi theo dòng nước. Nếu không bị người ta vớt, không bị quỷ thần ngăn trở, không bị nước xoáy làm dừng lại và không bị hư nát. Ta bảo đảm rằng khúc gỗ ấy sẽ ra đến biển.”
“Người học Đạo nếu không bị tình dục mê hoặc, không bị tà kiến làm rối loạn, tinh tấn tu tập đạo giải thoát. Ta bảo đảm người nầy sẽ đắc Đạo.”bài này giống Tương Ưng Bộ -Tập IV - Thiên Sáu Xứ [35] Chương Một: Tương Ưng Sáu Xứ [g] 200. IV. Khúc Gỗ KINH TƯƠNG ƯNG BỘ "PDF Trang 704"]
CHƯƠNG 28 THẬN TRỌNG VỚI Ý THỨC
CHÁNH VĂN. Phật ngôn: “Thận vật tín nhữ ý, nhữ ý bất khả tín. Thận vật dữ sắc hội. Sắc hội tức họa sanh. Đắc A La Hán dĩ, nãi khả tín nhữ ý.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Cẩn thận chớ có tin ý của ông. Ý của ông không đáng tin. Cẩn thận chớ gần gũi với sắc đẹp. Gần gũi với sắc đẹp chắc tai họa phát sinh. Khi nào chứng quả A La Hán rồi mới có thể tin ý của ông.”
CHƯƠNG 29 PHONG CÁCH SA MÔN
CHÁNH VĂN.:Phật ngôn: “Thận vật thị nữ sắc. Diệc mạc cộng ngôn ngữ. Nhược dữ ngữ giả, chánh tâm tư niệm: “Ngã vi sa môn, xử ư trược thế, đương như liên hoa, bật vị nê ô. Tưởng kỳ lão giả như mẫu, trưởng giả như tỷ, thiếu giả như muội, trĩ giả như tử, sanh độ thoát tâm, tức diệt ác niệm.”:
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Cẩn thận chớ có nhìn người khác phái, cũng đừng có nói chuyện. Nếu phải nói chuyện thì tâm ý phải chính trực, phải quán chiếu rằng: Ta là vị Sa môn, ở cõi đời uế trược phải như hoa sen, không bị nhiễm bùn lầy. Khi tiếp xúc với người khác phái như người nữ già hãy xem đó như mẹ. Người lớn tuổi hơn phải xem như chị, và người nhỏ như mình thì xem như em gái, bé hơn mình thì xem như con và phát tâm độ thoát họ tức diệt hết những tâm niệm ô uế.”
CHƯƠNG 30ĐOẠN CÁC DUYÊN SINH KHỞI ÁI DỤC
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, như bị càn thảo, hỏa lai tu tỵ. Đạo nhân kiến dục, tất đương viễn chi.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người tu hành như người mang cỏ khô, lửa đến phải tránh. Người tu chúng ta thấy đối tượng ái dục ắt phải lánh xa.”
CHƯƠNG 31 - CHƯƠNG 32 ĐOẠN GỐC RỄ SINH KHỞI ÁI DỤC
CHÁNH VĂN.CHƯƠNG 31 .Phật ngôn: “Hữu nhân hoạn dâm bất chỉ, dục tự đoạn âm. Phật vị chi viết: “Nhược đoạn kỳ âm, bất như đoạn tâm. Tâm như công tào, công tào nhược chỉ, tùng giả đô tức. Tà tâm bất chỉ, đoạn âm hà ích?” Phật vị thuyết kệ:
Dục sanh ư nhữ ý,
Ý dĩ tư tưởng sanh,
Nhị tâm các tịch tĩnh,
Phi sắc diệc phi hành.
Phật ngôn: Thử kệ thị Ca Diếp Phật thuyết.
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Có người vì lòng dâm dục không dứt, muốn tự đoạn âm. Phật bèn bảo rằng: “Đoạn âm không bằng đoạn tâm. Tâm như vị công tào, công tào nếu ngừng thì kẻ tùng sự đều ngừng. Tâm tà không dứt thì đoạn âm có ích gì?”
Do đó Phật nói bài kệ:
Dục sinh từ nơi ý.
Ý do tư tưởng sanh.
Hai tâm đều lặng lẽ.
Không sắc cũng không hành.
Đức Phật dạy: “Bài kệ này do Đức Phật Ca Diếp nói.”
CHƯƠNG 32 .Phật ngôn: “Nhân tùng ái dục sanh ưu, tùng ưu sanh bố. Nhược ly ư ái, hà ưu hà bố?”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Con người từ ái dục mà sinh sầu ưu, do sầu ưu mà sinh sợ hãi. Nếu thoát ly ái dục thì có gì mà sầu ưu, có gì mà sợ hãi”.
CHƯƠNG 33 MẶC GIÁP TINH TẤN
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, thí như nhất nhân dữ vạn nhân chiến. Quải khải xuất môn, ý hoặc khiếp nhược, hoặc bán lộ nhi thối, hoặc cách đấu nhi tử, hoặc đắc thắng nhi hoàn. Sa môn học Đạo, ưng đương kiên trì kỳ tâm, tinh tấn dũng nhuệ, bất úy tiền cảnh, phá diệt chúng ma, nhi đắc Đạo quả.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người tu hành theo Đạo giống như một người chiến đấu với vạn người. Khoác áo giáp vào người đi ra cửa. Hoặc có ý khiếp nhược sinh sợ hãi, hoặc là rút lui, hoặc chiến đấu cho tới chết, hoặc là đắc thắng trở về. Các thầy Sa môn học Đạo nên phát tâm cứng rắn tiến tới mạnh mẽ, không sợ bất cứ một khó khăn nào trước mặt, đánh dẹp hết các loài ma, thành tựu đạo quả giải thoát.
CHƯƠNG 34CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO
CHÁNH VĂN.Sa Môn dạ tụng Ca Diếp Phật Di giáo kinh. Kỳ thanh bi khẩn, tư hối dục thối. Phật vấn chi viết: “Nhữ tích tại gia, tằng vi hà nghiệp? Đối viết: Ái đàn cầm.” Phật ngôn: “Huyền hoãn như hà? Đối viết: Bất minh hỷ.” “Huyền cấp như hà? Đối viết: Thanh tuyệt hỷ.” “Cấp hoãn đắc trung như hà? Đối viết: Chư âm phổ hỷ.”
Phật ngôn: “Sa Môn học đạo diệc nhiên. Tâm nhược điều thích, Đạo khả đắc hỷ. Ư đạo nhược bạo, bạo tức thân bì. Kỳ thân nhược bì, ý tức sanh não. Ý nhược sanh não, hạnh tức thối hỷ. Kỳ hạnh ký thối, tội tất gia hỷ. Đản thanh tịnh an lạc, đạo bất thất hỷ.”
NGHĨA:Có một thầy Sa môn ban đêm tụng Kinh Di Giáo của Đức Phật Ca Diếp, tiếng ông ấy nghe rất buồn bã như tiếc nuối thối lui. Đức Phật hỏi: “Xưa kia, khi ở nhà ông thường làm nghề gì? Đáp rằng: “Thích chơi đàn cầm.” Phật hỏi: “Khi dây đàn chùng thì sao? Đáp rằng: “Không kêu được.” Đức Phật hỏi: “Khi dây đàn căng quá thì sao”? Đáp rằng: “Tiếng bị mất.” Đức Phật hỏi: “Không căng cũng không chùng thì sao?” Thầy ấy đáp: “Các âm thanh đầy đủ dễ nghe.”
Đức Phật liền dạy: “Người Sa môn học đạo cũng như vậy, tâm lý được quân bình thì mới có thể đắc Đạo. Đối với sự tu tập mà căng thẳng quá thì làm cho thân mệt mỏi, khi thân mệt mỏi thì tâm ý sẽ sinh phiền não. Tâm ý đã sinh phiền não thì công hạnh sẽ thối lui. Khi công hạnh đã thối lui thì tội lỗi tăng trưởng. Chỉ có sự thanh tịnh và an lạc Đạo mới không mất được.”(Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya, Thích Minh Châu dịch Việt ,Chương 06,. Ðại, Phẩm 06-12 "55' Sona )
{ Một thời Thế Tôn trú ở Bàrànasi, tại Isipatana, chỗ Vườn Nai. 2) Tại đấy, Thế Tôn bảo chúng năm Tỷ-kheo: -- Có hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, một người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai? II. Phẩm Chuyển Pháp Luân ,pdf,Page 1059 }
CHƯƠNG 35: THANH LỌC THÂN TÂM
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Như nhân đoàn thiết, khử chỉ thành khí, khí tức tinh hảo. Học đạo chi nhân, khử tâm cấu nhiễm, hạnh tức thanh tịnh hỷ”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Giống như người ta luyện sắt trừ bỏ phần cặn bã để trở thành loại sắt tinh luyện thì món đồ mới đẹp đẽ tinh ròng. Người học đạo cũng như thế, mình luyện lọc từ bỏ tâm ô uế, cáu bẩn thì hạnh mới được thanh tịnh.”
CHƯƠNG 36 CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Nhân ly ác đạo, đắc vi nhân nan. Ký đắc vi nhân, khử nữ tức nam nan. Ký đắc vi nam, lục căn hoàn cụ nan. Lục căn ký cụ, sanh trung quốc nan. Ký sanh trung quốc, trị Phật thế nan. Ký trị Phật thế, ngộ đạo giả nan. Ký đắc ngộ đạo, hưng tín tâm nan. Ký hưng tín tâm, phát bồ đề tâm nan. Ký phát bồ đề tâm, vô tu vô chứng nan.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Kẻ rời bỏ ác đạo được làm người là khó. Làm được thân người mà bỏ được thân nữ, làm được thân nam là khó. Làm được thân nam rồi mà sáu giác quan đầy đủ là khó. Sáu giác quan đủ rồi mà sinh sống ở nơi văn minh là khó. Sinh sống ở nơi vùng văn minh rồi mà gặp được Phật là khó. Gặp được Phật rồi mà ngộ Đạo là khó. Ngộ Đạo rồi mà khởi được niềm tin là khó. Khởi được niềm tin rồi mà phát tâm Bồ Đề là khó. Phát tâm Bồ Đề rồi mà đạt đến vô tu vô chứng là khó.”
(I) (96) Sự Xuất Hiện
1. - Này các Tỷ-kheo, sự xuất hiện của sáu sự kiện khó tìm được ở đời. Thế nào là sáu?
2. Sự xuất hiện của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khó tìm được ở đời; sự xuất hiện của người thuyết giảng Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết khó tìm được ở đời; sự tái sanh trong Thánh xứ khó tìm được ở đời; không khiếm khuyết các căn khó tìm ở đời; không si mê, không câm ngọng khó tìm ở đời; ước muốn thiện pháp khó tìm được ở đời.
Này các Tỷ-kheo, sự xuất hiện của sáu sự kiện khó tìm được ở đời. Tăng Chi Bộ Chương VI - Sáu Pháp X. Phẩm Lợi Ích Phẩm 06-12
CHƯƠNG 37: THÂN CẬN BÊN PHẬT
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Phật tử ly ngô sổ thiên lý, ức niệm ngô giới, tất đắc Đạo quả. Tại ngô tả hữu, tuy thường kiến ngô, bất thuận ngô giới, chung bất đắc Đạo.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Đệ tử của ta tuy ở xa ta vài nghìn dặm, nhưng nếu nhớ nghĩ, hành trì giáo pháp của Ta tất sẽ đắc Đạo. Ở bên cạnh ta tuy thường ngày gặp gỡ Đức Thế Tôn nhưng không hành trì và tu tập giới pháp của thì cuối cùng cũng không đắc được Đạo.”
CHƯƠNG 38 NGƯỜI HIỂU ĐẠO
CHÁNH VĂN.Phật vấn Sa Môn: “Nhân mạng tại kỷ gian? Đối viết: Sổ nhật gian.” Phật ngôn: “Tử vi tri đạo.” Phục vấn nhất Sa Môn: “Nhân mạng tại kỷ gian? Đối viết: Phạn thực gian.” Phật ngôn: “Tử vi tri đạo.” Phục vấn nhất Sa Môn: “Nhân mạng tại kỷ gian? Đối viết: Hô hấp gian.” Phật ngôn: “Thiện tai. Tử tri đạo hỷ.”
NGHĨA:Đức Phật hỏi: “Mạng sống con người được bao lâu? Vị Sa môn đáp: “Được vài ngày.” Đức Phật dạy: “Ông chưa hiểu Đạo”. Phật hỏi vị Sa môn khác: “Mạng người sống được bao lâu?” Thầy ấy đáp: “Trong một bữa ăn.” Phật bảo: “Ông cũng chưa biết Đạo.” Đức Thế Tôn lại hỏi một vị Sa môn khác nữa giống như vậy. Thầy nầy đáp: “Mạng sống con người trong một hơi thở.” Phật nói: “Hay thay, ông mới là người hiểu Đạo.”
CHƯƠNG 39 NHẤT VỊ PHÁP
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Học Phật đạo giả, Phật sở ngôn thuyết, giai ưng tín thuận. Thí như thực mật, trung biên giai điềm. Ngô Kinh diệc nhĩ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người tu học Phật pháp thì những lời giáo huấn của Phật truyền đạt ta phải nên tin tưởng và thực tập. Ví như ăn mật, giữa chén mật và chung quanh chén mật đều ngọt. Lời dạy của ta, giáo pháp của ta cũng giống như vậy.
CHƯƠNG 40 THÂN TÂM NHẤT NHƯ
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Sa môn hành Đạo, vô như ma ngưu, thân tuy hành Đạo, tâm Đạo bất hành. Tâm Đạo nhược hành, hà dụng hành Đạo.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Sa môn tu tập đừng như con trâu kéo xe. Thân tuy tu tập mà tâm không tu tập. Tâm nếu tu tập thì đâu cần phải thân tu tập.”
CHƯƠNG 41 NỖI SỢ TỬ SINH
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, như ngưu phụ trọng, hành thâm nê trung. Bì cực bất cảm tả hữu cố thị. Xuất ly ứ nê, nãi khả tô tức. Sa môn đương quán tình dục, thậm ư ứ nê, trực tâm niệm Đạo, khả miễn khổ hỷ.”
NGHĨA:Đức Phật dạy: “Người tu tập giống như con trâu kéo xe, chở rất nặng đi trong chốn bùn lầy. Cho dù mỏi mệt vô cùng cũng không dám nhìn qua hai bên. Bao giờ ra khỏi chốn bùn lầy kia mới dám nghỉ ngơi. Các vị Sa môn phải quán chiếu tình dục như bùn lầy, một lòng chuyên chú nhớ đến Đạo mới có thể vượt thoát cảnh khổ.”
CHƯƠNG 42 NHÌN BẰNG ĐÔI MẮT PHẬT
CHÁNH VĂN.Phật ngôn: “Ngô thị vương hầu chi vị như quá khích trần. Thị kim ngọc chi bảo như ngõa thước. Thị hoàn tố chi phục như tệ bạch. Thị đại thiên giới như nhất ha tử. Thị A Nậu trì thủy như đồ túc du. Thị phương tiện môn như hóa bảo tụ. Thị vô thượng thừa như mộng kim bạch. Thị Phật Đạo như nhãn tiền hoa. Thị thiền định như Tu Di trụ. Thị Niết Bàn như trú tịch ngụ. Thị đảo chánh như lục long vũ. Thị bình đẳng như Nhất chân địa. Thị hưng hóa như tứ thời mộc.”
NGHĨA:phật dạy: “Ta nhìn địa vị công hầu khanh tướng như bụi bay qua khe cửa. Ta xem vàng ngọc châu báu như ngói gạch. Ta xem y phục tơ lụa như giẻ rách. Xem đại thiên thế giới như hạt cải. Xem nước A Nậu trì thủy như giọt dầu xoa chân.” “Ta xem cửa phương tiện như báu vật hóa hiện. Xem quả vô thượng như mộng thấy vàng lụa. Xem quả vị Phật như hoa đốm trước mắt. Xem thiền định như núi Tu di. Xem Niết Bàn giống như ngày đêm thức giấc. Xem phải quấy như sáu con rồng múa. Xem pháp bình đẳng như nhất chân địa. Xem sự thịnh suy như cây bốn mùa.”
B.S: D.V. LỘC