Con đường giáo dục truyền thống của Phật giáo xuyên suốt 25 thế kỷ qua kể từ thời Đức Phật (563-483 B.C) cho đến nay bao giờ cũng được đặt trên nền tảng của Giới học (Adhisìla - sikkhà), Địnhh (Adhicitta - sikkhà) và Tuệ học (Adhipannà - sikkha).
Có lần Ðức Phật nhấn mạnh rằng "...Về sau giáo đoàn có sự sai khác về nếp sống, sinh hoạt, về quy chế tổ chức nhưng không thể có sự sai khác về đường lối tu tập, đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi và Tám chánh đạo " (Trung Bộ kinh III, (104) kinh Làng Soma) nhưng muốn đi đến cuối cùng con đường cần có những bước tiến phía sau:
Nhân vào Bát chánh đạo mà khai diễn ba mươi bảy phẩm trợ đạo,mà ứng dụng tam học và quy 4 độ hỗ trợ, thành cái gọi là 10 độ. lại qui nạp và diễn hóa thành sáu Ba La Mật Đa (lục độ), tất cả đều thuộc phạm vi tam vô lậu học Giới - Định - Tuệ.
{Nhân vào Bát chánh đạo mà khai diễn ba mươi bảy phẩm trợ đạo, lại qui nạp và diễn hóa thành sáu Ba La Mật Đa (lục độ), tất cả đều thuộc phạm vi tam vô lậu học Giới - Định - Tuệ.}
¬
Nhân vào Bát chánh đạo mà khai diễn ba mươi bảy phẩm trợ đạo: BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO.pdf
Trong Bát chánh đạo có sự mật thiết giữa hành pháp thứ tám này cùng với bảy hành pháp trợ đạo khác như Sự có mặt trong nhau qua sự phối hợp sau đây để hành giả có cái nhìn tổng quát và hiểu rõ một cách về sự liên hệ này:
- Chánh niệm trong Bát chánh đạo chính là ý nghĩa nội dung của tứ Niệm xứ (trụ); cũng chính là niệm căn, niệm lực của Ngũ căn-Ngũ lực; cũng là niệm giác chi của bảy Giác chi; và là tâm thần túc của Tứ thần túc.
- Chánh tinh tấn chính là ý nghĩa nội dung của Tứ Chánh cần; cũng chính là tinh tấn thần túc của Tứ thần túc.
- Chánh tư duy là trạch pháp giác chi; cũng chính là quán thần túc của Tứ thần túc.
- Chánh kiến là tuệ căn, tuệ lực;
- Chánh định là hỷ, khinh an, định, xả giác chi.
Chính vì sự quan hệ này nên được đức Đạo sư gọi là pháp trợ đạo cho Đạo đế, con đường trung đạo đưa hành giải thóat ra khỏi khổ để chứng đắc Niết-bàn an lạc giải thóat.
Liên hệ giữa Bát thánh đạo và Giới, Ðịnh, Tuệ:
-- Thưa Ni sư, ba uẩn ( Giới uẩn, Ðịnh uẩn, Tuệ uẩn ) được Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo Tám ngành được ba uẩn thâu nhiếp?
-- Hiền giả Visakha, ba uẩn không bị Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp; Hiền giả Visakha, Thánh đạo Tám ngành bị ba uẩn thâu nhiếp. Hiền giả Visakha, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong giới uẩn. Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, những pháp này được thâu nhiếp trong định uẩn. Chánh tri kiến và chánh tư duy, những pháp này được thâu nhiếp trong tuệ uẩn (Trung Bộ I, số (44). Tiểu kinh Phương quảng).
Liên hệ giữa sáu Ba La Mật Đa (lục độ),và của 4 độ hỗ trợ, thành cái gọi là 10 độ.
Đại bồ tát Quan tự tại lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, vì lý do nào mà qui định các độ khác chỉ có bốn số? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Quan tự tại : Thiện nam tử, vì lý do làm sự hỗ trợ cho sáu độ.
(Một), Bồ tát lợi ích chúng sinh bằng ba độ trước là dùng các nhiếp pháp làm phương tiện mà thu nhận họ, đặt họ vào thiện pháp, nên Như lai nói phương tiện độ làm sự hỗ trợ của ba độ trước.
(Hai), Bồ tát nếu vì hiện tại nhiều phiền não nên không thể tu hành một cách liên tục; vì ý lạc hèn kém và vì thắng giải (xao động) của cõi Dục nên không thể nội tâm an trú; vì không thể lắng nghe, vin theo và khéo tu giáo pháp Bồ tát tạng nên sự tịnh lự không thể dẫn ra cái tuệ xuất thế; (vì ba lý do như vậy), vị Bồ tát ấy thu thập phước đức tư lương đang ít và kém mà phát thệ nguyện chính yếu, để đời sau phiền não được nhẹ và nhỏ đi, như thế đó là nguyện độ; do nguyện này mà phiền não nhỏ và mỏng, có thể thực hành tinh tiến, nên Như lai nói nguyện độ làm sự hỗ trợ của tiến độ.
(Ba), Bồ tát nếu thân gần các bậc thiện sĩ để lắng nghe chánh pháp và tác ý đúng lý, do nhân tố này mà xoay ý lạc hèn kém thành ý lạc siêu việt, lại được thắng giải (bình lặng) của cõi trên, như thế đó là lực độ; do lực này mà có thể nội tâm an trú, nên Như lai nói lực độ làm sự hỗ trợ của định độ.
(Bốn), Bồ tát nếu đã lắng nghe, vin theo và khéo tu giáo pháp Bồ tát tạng thì có thể phát ra tịnh lự, như thế đó là trí độ;do trí này mà có thể dẫn ra cái tuệ xuất thế, nên Như lai nói trí độ làm sự hỗ trợ của tuệ độ. pdf trg 66 >67 KINH GIẢI THÂM MẬTHT. Thích Trí Quang dịch giải
Liên hệ giữa sáu Ba La Mật Đa (lục độ),và Giới, Ðịnh, Tuệ:
Đại bồ tát Quan tự tại tại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, sáu sự phải tu học như vậy, mấy sự thuộc về giới học tăng thượng? mấy sự thuộc về tâm học tăng thượng? mấy sự thuộc về tuệ học tăng thượng?
Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Quan tự tại: Thiện nam tử, nên biết (thí độ giới độ nhẫn độ) ba sự đầu ấy chỉ thuộc về giới học tăng thượng, định độ một sự chỉ thuộc về tâm học tăng thượng, tuệ độ một sự chỉ thuộc về tuệ học tăng thượng, và Như lai nói rằng tiến độ thì khắp trong tất cả.( Đây là nói 6 độ thuộc 3 học. pdf trg 65 https://www.niemphat.vn/downloads/dai-tang-kinh/kinh-bac-tong/kinh-giai-tham-mat-ht-tri-quangdich.pdf )
¬
¬ Giới-Ðịnh-Tuệ là ba môn học thiết yếu nhất trong hệ thống Phật giáo . phạm trù tam tạng giáo điển có thiên kinh vạn quyển không nằm ngoài phạm vi Giới-Ðịnh-Tuệ. Do vậy, nói học Phật là học Giới-Ðịnh-Tuệ, tu Phật là tu Giới-Ðịnh-Tuệ .
¬" DUY TUỆ THỊ NGHIỆP chúng ta lấy trí tuệ làm sự nghiệp mặt dù thiếu giới ,định thì không phải bát đại nhân giác nói"dù đó là ai….Mọi hình thức khác dù mang danh nghĩa Phật giáo và được biểu hiện như thế nào đi nữa mà không hướng đến các mục tiêu trên thì hoàn toàn đi ngược lại với tinh thần Phật giáo.
Dương văn lộc