NGHĨA:
Tâm bình không nhọc giữ giới,
Hạnh thẳng không cần tu thiền,
Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ,
Nghĩa thì trên dưới thương nhau.
Nhường thì trên dưới hòa mục,
Nhẫn thì các ác không ồn,
Nếu hay dùi cây ra lửa,
Trong bùn quyết mọc sen hồng.
Đắng miệng tức là thuốc hay,
Nghịch tai là lời ngay thẳng,
Sửa lỗi ắt sanh trí tuệ,
Giữ quấy trong tâm không hiền.
Mỗi ngày thường làm lợi ích,
Thành đạo không do thí tiền,
Bồ-đề chỉ hướng tâm tìm,
Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền.
Nghe nói y đây tu hành,
Cực lạc chỉ ngay trước mắt.”
Nghĩa:
Không ngờ Tự Tánh vốn tự thanh tịnh
Không ngờ Tự Tánh vốn chẳng sanh diệt
Không ngờ Tự Tánh vốn tự đầy đủ
Không ngờ Tự Tánh vốn chẳng lay động
Không ngờ Tự Tánh hay sanh muôn Pháp”.
Nghĩa:
Đất tâm không lỗi Tự tánh giới,
Đất tâm không si Tự tánh tuệ,
Đất tâm không loạn Tự tánh định.
Chẳng tăng chẳng giảm tự kim cang,
Thân đến thân đi vốn tam-muội.
Nghĩa :
Nếu lời nói hòa hợp.
Cùng nhau bàn nghĩa Phật.
Nếu như chẳng hòa hợp.
Chấp hai tay hoan hỷ.
Dịch nghiã:
Ngây ngây chẳng tu thiện,
Bừng bừng chẳng tạo ác.
Tịch tịch dứt thấy nghe,
Luôn luôn chẳng dính mắc.
Dịch:
Chân Tâm hạo hạo vô cùng cực,
Tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất.
Chẳng trụ, chẳng đến, cũng chẳng đi,
Tam thế chư Phật từ trong xuất...
Nghĩa :
Tông này vốn không tranh.
Tranh cãi mất ý đạo.
3
Khi sống ngồi thiền mãi không nằm
khi chết nằm luôn không ngồi.
vốn là cái đầu xương thúi,
thì vì sao mà lập công khóa?
4
Tội Từ Tâm khởi đem tâm sám,
Tâm đã diệt rồi tội cũng vong
Tội vong tâm diệt cả hai không,
Đó chính thực là chơn sám hối.
5
Thân như cây Bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi nhơ.
6.
Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ.
7
Ngọa Luân có tài năng,
Hay đoạn trăm tư tưởng,
Đối cảnh tâm chẳng khởi,
Bồ-đề ngày ngày lớn.
8
Huệ Năng không có tài,
Chẳng đoạn trăm tư tưởng,
Đối cảnh tâm thường khởi,
Bồ-đề làm gì lớn.
9 Âm:
hậu thế có bài kệ khác như sau;
tâm khởi tâm tự diệt ,
bồ đề trưởng bất trưởng”.
NGHĨA:
Thuyết thông và tâm thông,
Như mặt trời giữa không,
Chỉ truyền pháp kiến tánh,
Ra đời phá tà tông.
1
Pháp thì không đốn tiệm,
Mê ngộ có mau chậm,
Chỉ pháp kiến tánh này,
Người ngu không thể hiểu.
2
Nói tuy có muôn thứ,
Trở về lý chỉ một,
Phiền não trong nhà tối,
Thường sanh mặt trời tuệ.
4
Tà đến phiền não sanh,
Chánh đến phiền não dứt,
Tà chánh đều không dùng,
Thanh tịnh mới hoàn toàn
5
Bồ-đề vốn tự tánh,
Khởi tâm tức là vọng,
Tâm tịnh ở trong vọng,
Chỉ chánh không ba chướng.
6
Người đời nếu tu hành,
Tất cả trọn chẳng ngại,
Thường tự thấy lỗi mình,
Cùng đạo tức tương đương.
7
Sắc loại tự có đạo,
Đều chẳng chướng ngại nhau,
Lìa đạo riêng tìm đạo,
Trọn đời không thấy đạo.
8
Lăng xăng qua một đời,
Kết cuộc tự sanh não,
Muốn thấy đạo chân thật,
Hạnh chánh tức là đạo.
9
Nếu không có tâm đạo,
Hạnh tối không thấy đạo,
Người chân chánh tu hành,
Không thấy lỗi thế gian.
10
Nếu thấy lỗi người khác,
Lỗi mình đã đến bên,
Người quấy ta chẳng quấy,
Ta quấy tự có lỗi.
11
Chỉ dẹp lỗi nơi tâm,
Phá trừ các phiền não,
Yêu ghét chẳng bận lòng,
Duỗi thẳng hai chân ngủ.
12
Muốn nghĩ giáo hóa người,
Tự phải có phương tiện,
Chớ khiến người nghi ngờ,
Tức là tự tánh hiện.
13
Phật pháp nơi thế gian,
Không lìa thế gian giác,
Lìa thế tìm Bồ-đề,
Giống như tìm sừng thỏ.
14
Chánh kiến gọi xuất thế,
Tà kiến là thế gian,
Tà chánh đều dẹp sạch,
Tánh Bồ-đề hiện rõ.
15
Tụng này là đốn giáo,
Cũng gọi thuyền đại pháp,
Mê nghe trải nhiều kiếp,
Ngộ trong khoảng sát-na.”
BÀI 17
Kiến nhất thiết tướng,
Bất khởi phân biệt tưởng
Thị danh vô tướng
Gọi đó là vô tu
NGHĨA;
Vô thượng Đại Niết Bàn,
Sáng tròn thường tịch chiếu.
Phàm phu gọi là chết,
Ngoại đạo chấp đoạn diệt.
Những người tu Nhị thừa,
Cho đó là vô tác.
Thảy đều do tình thức,
Sáu mươi hai kiến chấp.
Vọng lập tên hư giả,
Đâu phải nghĩa chơn thật.
Chỉ có người kiến tánh,
Thông đạt chẳng lấy bỏ.
Vì biết pháp ngũ uẩn,
Với cái ngã trong uẩn.
Cả hiện tượng thế giới,
Mỗi sắc tướng âm thanh.
Bình đẳng như mộng huyễn,
Chẳng phân biệt thánh phàm.
Chẳng cho là Niết Bàn,
Nhị biên tam tế dứt.
Thường ứng các căn dụng ,
Mà chẳng khởi dụng tưởng.
Phân biệt tất cả pháp ,
Chẳng khởi phân biệt tưởng.
Niết Bàn vốn phi vật,
Lửa gió đụng chẳng được.
Chơn vui thường tịch diệt,
Tướng Niết Bàn như thế.
Nay ta gượng nói ra,
Khiến người bỏ tà kiến.
Chớ hiểu theo lời nói,
Mới cho biết ít phần.
Dịch nghĩa :
Tức tâm là huệ,
Tức Phật là định.
Định huệ song song (đẳng trì),
Nơi ý thanh tịnh.
Ngộ pháp môn này,
Do tập khí người.
Dụng vốn vô sanh,
Song tu (định huệ) là chánh.
Dịch nghĩa:
Tức tâm vốn là Phật,
Chẳng ngộ là tự khuất .
Ta biết nhân định huệ,
Song tu lìa vạn pháp.
Dịch nghĩa:
Lễ vốn trừ ngã mạn,
Đầu sao chẳng chấm đất?
Có ngã tội liền sanh,
Quên công phước vô tận.
Dịch nghĩa:
Nay ông tên Pháp Đạt,
Chuyên tụng chưa từng thôi,
Tụng rỗng chỉ theo tiếng,
Sáng tâm hiệu Bồ-tát.
Nay ông vì có duyên,
Nay tôi vì ông nói,
Chỉ tin Phật không lời,
Hoa sen từ miệng phát.
Dịch nghĩa:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,
Tụng lâu không rõ nghĩa,
Cùng nghĩa trở thành thù.
Không niệm niệm là chánh,
Có niệm niệm là tà,
Có không đều chẳng chấp,
Tự tánh luôn luôn hiện.
Dịch nghĩa:
Tự tánh đủ tam thân,
Khai ngộ thành tứ trí.
Chẳng lìa sự thấy nghe,
Đốn siêu địa vị Phật.
Ta nay vì ngươi thuyết,
Tin chắc trọn chẳng mê.
Chớ học kẻ tìm cầu,
Suốt ngày nói Bồ Đề.
Dịch nghĩa:
Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh.
Diệu quan sát trí chẳng tác ý,
Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển,
Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh.
Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc,
Ở chổ náo động cũng đại định.
Dịch nghĩa:
Thể ta sẵn tam thân,
Bản tâm đủ tứ trí.
Thân trí dung lẫn nhau,
Tiếp vật tùy cơ ứng.
Mống tâm tu là vọng,
Giữ yên cũng chẳng chơn.
Nhờ Sư thấu diệu chỉ,
Chẳng còn kẹt danh tướng.
Dịch nghĩa:
Chẳng thấy một pháp thành vô kiến,
Như mây đen che khuất mặt trời.
Chẳng biết một pháp thành vô tri,
Lại như hư không sanh điện chớp.
Như thế vẫn còn chấp tri kiến,
Nhận lầm chưa hiểu thấu phương tiện.
Ngươi phải trong niệm tự biết quấy,
Ánh sáng tự tánh thường hiển hiện.
NGHĨA:
Thấy, nghe, biết, hiểu không chướng ngại
Tiếng, hương, mùi, xúc thường tam muội
Như chim giữa trời chỉ tự bay
Chẳng thủ, chẳng xả, chẳng tắng ái
Nếu hay ứng xử vốn vô tâm
Mới được tên là Quán Tự Tại .
Dịch nghĩa:
Khi không khởi tri kiến,
Chấp tướng cầu Bồ Đề.
Tình chấp một niệm ngộ,
Khó siêu nhiều kiếp mê.
Bản thể tự tánh giác,
Tùy chiếu vọng lưu chuyển.
Chẳng vào thất Tổ sư,
Si mê chạy hai đầu.