của toàn bộ nội dung về Tam Quy Y:
1. Quy Y là gì?
"Quy" nghĩa là trở về, "Y" là nương tựa. Quy Y tức là quay trở về nương tựa nơi chốn mình đã rời xa vì vô minh và buông thả – giống như đứa trẻ thơ dại lìa bỏ cha mẹ để rong chơi trong ảo tưởng, đến khi trải qua đau khổ, mới biết quay về tìm lại sự yêu thương và bình an nơi cha mẹ.
Chữ "Quy Y" dịch sát nghĩa là "kính vâng" hay "phục tùng" với lòng thành kính.
2. Tam Bảo là gì?
Tam Bảo là ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.
Trong thế gian, vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng được xem là quý giá, nhưng chúng không thể cứu con người thoát khỏi khổ đau, sinh lão bệnh tử. Ngược lại, Tam Bảo có sức mạnh hướng dẫn con người vượt khỏi bể khổ vô biên.
Phật: Là bậc Giác Ngộ toàn diện, sáng suốt trong ba phương diện: tự giác, giác tha và viên mãn hạnh giác.
Pháp: Là con đường tu hành do Phật chỉ dạy để dập tắt vô minh, đau khổ và đạt đến giác ngộ.
Tăng: Là đoàn thể tu hành thanh tịnh, cùng sống hòa hợp, giữ giới luật và dìu dắt nhau trên con đường giải thoát.
3. Quy Y Tam Bảo là gì?
Quy Y Tam Bảo là trở về nương tựa vào Phật, Pháp, và Tăng – ba nơi nương tựa chân thật.
Quy Y Phật: Vì Phật là bậc đại giác, đại bi, là người dẫn đường vĩ đại đã vượt thoát luân hồi.
Quy Y Pháp: Vì chỉ có Pháp là con đường đúng đắn giúp chúng ta thoát khổ và đạt giải thoát.
Quy Y Tăng: Vì Tăng là những người từ bỏ dục lạc thế gian để dốc lòng tu hành, giúp chúng sinh tiếp cận Đạo.
1. Đồng Thể Tam Bảo
Phật Bảo: Tất cả chúng sinh đều có tánh giác ngộ như chư Phật.
Pháp Bảo: Tất cả đều có pháp tánh từ bi, bình đẳng.
Tăng Bảo: Tất cả đều có thể sống thanh tịnh, hòa hợp giữa lý và sự.
2. Xuất Thế Gian Tam Bảo
Phật Bảo: Như Đức Phật Thích Ca, A Di Đà, và chư Phật mười phương ba đời – những bậc đã giải thoát.
Pháp Bảo: Như Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ – giúp thoát ly khổ đau thế gian.
Tăng Bảo: Các vị Thánh Tăng như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù… đã ra khỏi luân hồi.
3. Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo
Phật Bảo: Tượng Phật, xá lợi – là biểu tượng của Phật.
Pháp Bảo: Kinh sách, giáo lý viết hoặc in ấn.
Tăng Bảo: Các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni tu hành nghiêm túc, giữ giới luật.
Thực hành Quy Y phải từ hình thức đến nội tâm, thể hiện qua:
Quy Y Phật: Ghi nhớ, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Phật, sống theo hạnh nguyện của Ngài.
Quy Y Pháp: Tụng đọc kinh điển, tìm hiểu nghĩa lý, điều phục tâm trí bằng giáo pháp.
Quy Y Tăng: Kính trọng chư Tăng tu hành chân chính, xem họ như đại diện của Phật.
Lý là nội tâm. Quy Y Tam Bảo bên trong có nghĩa là:
Tự Quy Y Phật: Trở về với Phật tánh sáng suốt trong tâm – vốn có sẵn nơi mỗi người nhưng bị vô minh che khuất.
Tự Quy Y Pháp: Sống theo các đức tính thiện lành sẵn có như từ bi, trí tuệ, nhẫn nhục.
Tự Quy Y Tăng: Nhận ra vị Thầy thanh tịnh trong chính tâm mình, sống đời hòa hợp và sáng suốt.
Trước khi Quy Y:
Làm sạch thân tâm: Tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, sám hối ba nghiệp cho thanh tịnh.
Phát nguyện chân thành:
Suốt đời Quy Y Phật – không quy y thiên thần, quỷ vật.
Suốt đời Quy Y Pháp – không theo tà giáo, ngoại đạo.
Suốt đời Quy Y Tăng – không theo bè đảng ác hữu.
Sau khi phát nguyện, người Quy Y tin chắc đã gieo hạt giống giải thoát, thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Là Phật tử, Quy Y là điều tất yếu, phải bao gồm cả Sự và Lý. Không nên lệ thuộc hoàn toàn vào hình thức mà quên mất nội tâm, cũng không nên quá tự phụ nội tâm mà xem nhẹ hình tướng.
Lễ Quy Y là bước đầu tiên, giống như lễ tiễn người lên đường. Nhưng một khi đã lên đường, phải dốc lòng tiến bước đến đích giải thoát, không được chần chừ, thối lui. Nếu phát nguyện mà không thực hành đúng, là tự dối mình và gây hại lớn hơn cả người chưa từng Quy Y.
Ngược lại, nếu sống đúng như lời phát nguyện, dù con đường còn xa, ắt có ngày đến nơi an lạc vĩnh hằng.
=====================================================================================
I - Ðịnh Danh Và Giải Nghĩa.
1- Quy-y nghĩa là gì? Quy là trở về; Y là nương tựa, Quy-y là trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si mê, phóng đãn lià bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ để ra đi trong hoan phá, bây giờ biết sự dại khờ do kinh nghiệm khổ đau, quay trở về nương tựa lại dưới bóng hạnh phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch nghĩa là kính vâng hay phục tùng.
2- Tam bảo nghĩa là gì? Tam bảo là ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.
Ở thế gian, vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng là quí báu. Nhưng sự thật, vàng bạc, danh vọng đâu có cứu được con người khỏi khổ, sanh, già, bịnh, chết, mà lắm khi còn làm cho con người thêm khổ nữa! Còn Phật, Pháp, Tăng thì có đủ năng lực dắt dẫn con người ra khỏi những cái khổ“ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG,KHỔ HẢI VẠN TRÙNG BA ”. Bỡi thế, người đời mới tôn sùng (Tam Bảo).
a) PHẬT: Chữ Phật do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu dịch là Giác Giả nghĩa là: Bực đã giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
b) PHÁP: Pháp là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra. Pháp là phuơng pháp tu hành mà Phật đã phát huy ra để diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả Phật. Ba Tạng Kinh Ðiển đều gọi chung là Pháp.
c) TĂNG: Tăng hay Tăng già là do chữ Phạn Shanga mà phiên âm ra; Tàu dịch là: Hòa hợp chúng, nghĩa là một đoàn thể tu hành từ bốn người sắp lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng giữ giới luật của Phật, đồng chia sẻ cho nhau một cách hòa thuận những gì đã thu nhận được, từ vật chất đến tinh thần. .
3- Quy-y Tam-bảo là thế nào? - Quy-y Tam-bảo là trở về nương tựa ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.
Tại sao phải Quy-y Phật? - Vì Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên mãn; - Vì Phật là người dẫn đường vĩ đại nhất, đã có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài vòng sanh tử để chứng Ðạo.
Tại sao quy-y Pháp? - Vì chỉ có phương pháp của Phật là đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát.
Tại sao lại quy-y Tăng? - Vì Tăng là người đã hy sinh gia đình, vật chất, danh vọng... để tình nguyện theo Phật dắt dẫn chúng sanh trên đường Ðạo.
TAM BẢO
Tam Bảo có ba bực:
Ðồng thể Tam bảo,
Xuất thế gian Tam bảo,
Thế gian trụ trì Tam bảo.
1 - Ðồng Thể Tam Bảo;
a) Ðồng Thể Phật Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật dồng một thể tánh sáng suốt.
b) Ðồng Thể Pháp Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng.
c) Ðồng Thể Tăng Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chu Phật đồng một thể tánh thanh tịnh, sự, lý hòa hợp.
2 - Xuất Thế Gian Tam Bảo
a) Xuất Thế Gian Phật Bảo: là chỉ cho Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ðức Phật A-Di-Ðà, Chư Phật trong mười phương ba đời, đã tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.
b) Xuất Thế Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của Phật, có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, như Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục -độ v.v...
c) Xuất Thế Gian Tăng Bảo: là chỉ cho các vị Thánh-Tăng đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, Văn Thù, Ca-Diếp, A-Nan….
3- Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo;
a) Thế Gian Trụ Trì Phật Bảo, là chỉ cho XaLợi của Phật, tượng Phật đức bằng kim khí, chạm trổ bằng danh mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy.
b) Thế Gian Trụ Trì Pháp Bảo, là chỉ cho ba tạng Giáo điển: Kinh, Luật, Luận viết hay in trên giấy, trên vải trên lá v.v...
c) Thế Gian Trụ Trì Tăng Bảo, là chỉ các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni tu hành chân chánh, đạo đức trong sạch, giới luật trang nghiêm trong hiện tại.
Sự Quy y Tam Bảo
Sau khi đã hiểu rõ thế nào là Quy-y Tam bảo, tất nhiên phải thực hành sự hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự tướng cung kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y Tam-bảo.
1 - Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài, và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật.
2 - Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không nghĩ xằn bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt,an lành, thanh tịnh.
3- Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải kính Tăng". Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu, thì chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo vuông, chân chính tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể, quý trọng, xem như đó là vị đại diện cho Ðức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.
Tóm lại, thờ Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phãt pháp, kính trọng Tăng già chân chính, đó chính là sự quy-y tam-bảo.
LÝ QUY Y TAM BẢO
Lý là bên trong. Lý quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự quy-y, chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, nghĩa là quên Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng ta chưa thực hành đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lý quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:
1- Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là mình đối với tự tâm mình. Tư quy-y Phật là mình tự trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm mình, -Thật vậy mổi người đều có Phật tánh, và đều có thể thành Phật. Ðó là lời Phật Thích Ca đã dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật tánh chúng ta bị vọng tưởng vô minh che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn thường còn. Vậy thì sao chúng ta lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài; như đứa "cùng tử" có viên ngọc quý, cha mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp mọi nơi!
2- Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của mình. Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân theo chúng. Như thế là tự Quy-Y Pháp
3- Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp thanh tịnh của mình, như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp thanh tịnh bên ngoài. Bấy lâu vì mình mê muội, không nhận thấy được ông Thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải quy-y Thầy của mình trước đã !
Nói tóm lại, mình phải nương tựa, quay về với Phật trong tâm mình là tính sáng suốt; với Pháp trong tâm mình là các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm mình là sự hòa hợp, thanh tịnh của bản tâm. Như thế là Lý Quy-Y Tam-bảo.
NGHI THỨC QUY Y
Sau khi chúng ta đã hiểu rõ SỰ và LÝ Quy-y rồi, chúng ta cũng cần biết qua nghi thức của lễ Quy-y.
1- Trưóc Tiên Phải Gội Rửa Thân Tâm Cho Trong Sạch.
Quy-y là buổi lễ quan trọng nhất trên đường tu tập của chúng ta. Nó là cuộc khởi hành để đi đến mục đích giải thoát, vì thế chúng ta không thể xem thường, cử hành một cách bừa bãi được.Khi muốn quy-y, chúng ta phải y-phục chỉnh tề, sắm khay lễ thỉnh chư Tăng đến trai đường, đảnh lễ và cầu xin chư Tăng rủ lòng Từ-bi truyền trao quy-giới cho mình.
Trước ngày hành lễ, thân tâm chúng ta phải được gội rửa trong sạch. Ta tắm rửa sạch sẽ ăn mặc chỉnh tề. Ðó là về thân; còn về tâm thì ta phải ba phen sám hối, cho ba nghiệp được thanh tịnh. Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn ngoài ấy, ta mới xứng đáng đón nhận Pháp thanh tịnh cao quý của Tam-bảo.
2- Phát Nguyện;
Ðến giờ quy-y, chúng ta phải qùy xuống; theo lời hướng dẫn của chư Tăng, chí thành phát nguyện:
- Ðệ tử suốt đời quy-y Phật.
- Ðệ tử suốt đời quy-y Pháp.
- Ðệ tử suốt đời quy-y Tăng.
Sau khi phát nguyện Tam-quy rồi, người phát nguyện tin chắc rằng mình đã gieo hạt giống giải thoát, thế nào cũng sẽ gặt được kết quả tốt là thoát ly ba đường ác: Ðịa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh. Vì thế người quy-y liền nói tiếp ba lần:
- Ðệ tử quy-y Phật rồi, khỏi đọa địa ngục.
- Ðệ tử quy-y Pháp rồi, khỏi đọa ngạ quỷ.
- Ðệ tử quy-y Tăng rồi, khỏi đọa súc sanh.
Thế là trọn vẹn Tam-quy và Tam-kiết.
Ðể bảo tồn lý tưởng cao cả của mình và giữ vững đức tin trên đường Ðạo, người quy-y tự nguyện một cách mạnh mẽ và thành khẩn:
- Ðệ tử quy- Phật, nguyện trọn đời không quy y thiên, thần, quỷ, vật.
- Ðể tử quy-y Pháp, nguyện trọn đời không quy-y ngoại đạo, tà giáo.
- Ðệ tử quy-y Tăng, nguyện trọn đời không quy-y tổn hữu ác đảng.
Như thế là lễ quy-y đã hoàn tất. Người Tín đồ chỉ còn việc làm theo đúng những lời
mình đã phát nguyện và đã tuyên thệ trước Tam-bảo.
- Kết Luận ;
Khuyên tín đồ nên quy-y cả Sự lẫn Lý và tinh tiến trong sự quy-y ;
Chúng ta đã thấy, là Phật tử thì phải quy-y. Quy-y phải đủ Sự và Lý. Không nên hoàn
toàn ỷ lại bên ngoài mà xao lảng bên trong. Cũng không nên hoàn toàn tự tôn tự trọng riêng mình mà khinh thị bên ngoài. Muốn quy-y thì trước tiên phải long trọng làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi đầu tiên của mình trên đường giải thoát. Lễ ấy như là lễ tiễn đưa một người ra đi nhận một nhiêm vụ mới. Nhưng một khi đã đặt chân lên đường, thì người ấy phải dong ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác. Ðã phát nguyện quy-y mà không theo dấu chân của Ðức Phật đã để lại, không soi vào gương sáng của Ðức Phật đã nêu cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không giữ giới luật, không vâng lời nhắc nhở của Chư Tăng, như thế là tự lừa dối mình và lừa dối người khác, và cái tai hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y.
Trái lại, nếu chúng ta quy-y và thực hành đúng như lời đã phát nguyện thì con đường giải thoát dù xa, cũng sẽ có ngày đến đích.