Luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Thức a-lại-da gồm có mười thứ, mỗi kinh đều nói khác nhau:
1- Đại nhiếp chủ a-lại-da thức: là đại thức tổng tướng, nghĩa như trên nói.
2- Căn bản vô minh riêng lập làm a-lại-da thức thành mười thứ vọng tưởng. Khế kinh nói: “Sát-xà-chỉ-đa đề vương thức là vọng pháp, chẳng thể liễu đạt nhất pháp giới thể; thức a-lại-da lấy tất cả nhiễm pháp làm căn bản, sinh ra tăng trưởng không dứt mất”. Nếu không có đề vương thức, các pháp bất thiện hoàn toàn không có nơi nương tựa nên chẳng thể sinh trưởng, thức a-lại-da này sẽ thuộc về quyết trạch nào ? Trong bản luận nói nó thuộc nghĩa bất giác, vì chẳng biết pháp nhất chân như thật; do bất giác tâm khởi vọng niệm...
3- Thanh tịnh bản giác a-lại-da thức: là bản trí tự nhiên riêng lập làm a-lại-da, cho nên khế kinh nói về bản giác như sau: “A-lại-da thức tự thể thanh tịnh của Phật có đầy đủ công đức vô lậu viên mãn, thường hằng quyết định, không tướng thọ huân, không tướng biến dị, trí thể bất động, đầy đủ thiện pháp, vì thế gọi là độc nhất tịnh thức”, thế nên thức a-lại-da này sẽ thuộc về quyết trạch nào ? Trong bản luận nói: lại nữa thể tướng của giác có bốn thứ nghĩa “đại”, đồng với hư không như gương sáng sạch ...
4- Nhiễm tịnh bản giác a-lại-da thức: Bất thủ tự tính đà-la-ni trí riêng lập làm a-lại-da thức, nên khế kinh nói về bản nhân duyên khởi như sau: “Bấy giờ, đồng tử Quang Nghiêm bạch Phật: Thế Tôn do nguyên nhân gì khó vào pháp hội chưa từng có ? Tùy tha duyên khởi đà-la-ni trí gọi là Lăng Già vương thức. Tại sao gọi là Lăng Già vương ? Dùng ví dụ này để trình bày duyên khởi đà-la-ni trí.
Khi ấy Thế Tôn bảo đồng tử Quang Nghiêm: Này đồng tử, Lăng Già vương thường ở trong núi Ma-la biển lớn, thống lĩnh mười muôn sáu nghìn chúng quỉ thần làm quyến thuộc.
Các quyến thuộc ấy cưỡi cung điện hoa dạo chơi khắp các cõi đều là nhờ thần lực vua Lăng Già. Các quỉ thần cùng nói: ‘Chúng tôi không có uy đức, không có khí lực, không có khả năng làm những việc như thế, chỉ có đại vương mới có năng lực ấy’. Vua Lăng Già liền ban cho năng lực thù thắng và không rời bỏ họ”. Nghĩa là vua Lăng Già tuy chẳng phải phân thân mà có thể đầy khắp trong chúng quỉ thần, mỗi mỗi đều có năng lực toàn thân mọi lúc mọi nơi cùng di chuyển chẳng lìa. Bất thủ tự tính trí cũng thế, có thể vừa tiếp nhận sự huân tập của tất cả vô lượng vô biên phiền não nhiễm pháp của quỉ thần, vừa cùng di chuyển chẳng lìa. Bởi nhân duyên này, ta khó vào trong ấy để nói rằng tùy chuyển giác trí gọi là Lăng Già vương thức, thế nên thức a-lại-da sẽ thuộc về quyết trạch nào ? Trong bản luận nói: “Tự tính thanh tịnh tâm do gió vô minh động, tâm và vô minh đều vô hình tướng, chẳng xa lìa nhau…”.
5- Nghiệp tướng nghiệp thức a-lại-da thức, là căn bản nghiệp tướng và nghiệp thức riêng lập làm a-lại-da, cho nên trong khế kinh nói về bản tính trí như sau: “Thức a-lại-da, vô năng liễu tác, vô sở liễu tác, không thể phân tích, không thể cách biệt, chỉ do nghĩa chuyển động tinh vi vận hành kín đáo nên gọi là Kiện-ma”, thế nên thức a-lại-da sẽ thuộc về quyết trạch nào ? Trong bản luận nói: “Lại nữa, vì nương vào bất giác nên sinh ba tướng tương ưng chẳng lìa với bất giác”. Thế nào là ba tướng ? Một là vô minh nghiệp tướng, bởi nương nơi bất giác nên tâm động gọi là nghiệp. Giác thì bất động, động thì có khổ, vì quả chẳng rời nhân.
6- Chuyển tướng chuyển thức a-lại-da thức, nghĩa là tướng hay thấy cảnh giới và chuyển thức riêng lập làm a-lại-da, nên trong khế kinh nói về Đại vô lượng: “Thức a-lại-da có kiến kiến chuyển, không kiến kiến khai”, thế nên thức a-lại-da sẽ thuộc về quyết trạch nào ? Trong bản luận nói: “Hai là năng kiến tướng, vì nương nơi động nên hay thấy, bất động nên không thấy”.
7- Hiện tướng thức a-lại-da thức, nghĩa là tướng cảnh giới và hiện thức riêng lập làm a-lại-da, nên trong khế kinh nói về Thật tế: “Biệt khác biệt, địa hiện tiền chuyển; tướng khác tướng, hạnh cụ túc chuyển cho nên gọi là thức a-lại-da. Lại nữa, thức a-lại-da thật sự là pháp dị thục vô ký, vì là tướng bạch tịnh; hoặc gọi là thành tựu”, thế nên thức a-lại-da sẽ thuộc quyết trạch nào ? Trong bản luận nói rằng: “Ba là cảnh giới tướng, vì nương vào năng kiến nên cảnh giới vọng hiện, vì lìa thấy nên không có cảnh giới”.
8- Tính chân như lý a-lại-da thức, nghĩa là chân như thanh tịnh được chính trí chứng đắc riêng lập làm a-lại-da, nên trong khế kinh nói về chư pháp đồng thể: “Có thức là thức, phi thức thuộc về thức gọi đó là như như a-lại-da thức”, thế nên thức a-lại-da sẽ thuộc quyết trạch nào ? Đó là trí bát-nhã thanh tịnh thuộc về chân như.
9- Thanh tịnh thỉ giác a-lại-da thức, nghĩa bát-nhã thỉ giác thanh tịnh sẵn có riêng lập làm a-lại-da cho nên trong khế kinh nói về quả viên mãn: “Phật bảo Bồ-đề thụ vương: Tự nhiên thỉ giác a-lại-da thức thường chẳng lìa bản giác thanh tịnh, bản giác thanh tịnh thường chẳng lìa thỉ giác tịnh thức, theo cái này thì có cái kia, theo cái kia thì có cái này, hoặc chẳng phải đồng loại, hoặc chẳng phải khác loại”, thế nên thức a-lại-da sẽ thuộc quyết trạch nào ? Trong bản luận nói: “Nghĩa bản giác đối với thỉ giác, vì là đồng bản giác”.
10- Nhiễm tịnh thỉ giác a-lại-da thức, nghĩa là thỉ giác bát-nhã tùy duyên riêng lập ra a-lại-da nên trong khế kinh nói về quả viên mãn: “Lại nữa, thụ vương, như thỉ giác tịnh thức và bản giác nói nhiễm tịnh thỉ giác a-lại-da thức. Bất thủ tự tính duyên khởi bản giác cũng như thế”, thế nên thức a-lại-da sẽ thuộc quyết trạch nào ? Trong bản luận nói rằng: “Nghĩa thỉ giác, vì nương bản giác mà có bất giác, nương bất giác mà có thỉ giác”. Lại do giác ngộ nguồn tâm nên gọi là cứu cánh giác; chẳng giác ngộ nguồn tâm nên chẳng phải là cứu cánh giác”. Cho đến đã nói tạng thức phân tích văn tự sinh ra môn biệt tướng, lại nói tổng thức thâu nhiếp sinh ra môn viên mãn.
Thức này có hai nghĩa hay bao gồm tất cả pháp, hay sinh tất cả pháp: một là nghĩa giác, hai là nghĩa bất giác để hiển bày tổng quát tướng viên mãn thù thắng của đại thức. Nghĩa này thế nào ? Đó là đầy đủ hai thứ viên mãn: một là công đức viên mãn, hai là quá hoạn viên mãn.
Công đức viên mãn là kết quả của nghĩa giác, vì hay bao gồm và sinh ra vô lượng vô biên công đức vượt hơn Hằng sa, bất ly bất đoạn.
Quá hoạn viên mãn là kết quả của nghĩa bất giác, vì hay bao gồm và sinh ra vô lượng vô biên lầm lỗi vượt hơn Hằng sa, hoặc ly hoặc thoát các lỗi lầm.T-C-L,tập 3,Q 51,docx trg 09 >12 ,sách trg 347 >352