CHÁNH TRÍ MAI THỌ TRUYỀN
KINH LĂNG NGHIÊM PHIÊN ÂM HÁN-VIỆT
Liễu chân như chơn
Tức chơn, vọng bổn
Khởi phương tiện huệ
Tuyên bí mật ngôn:
Vạn pháp dĩ chí viên dung
chư phật dĩ chi tự tại
nhập bất nhị chi "nhị đế"
ngộ bất không chi "tam không". trg 9 Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Chánh Trí Mai Thọ Truyền
*
Thiền định là mẹ của chư Phật. Ông nghe các pháp bí mật của chư Phật Nhiều như số vi trần. Nếu trước tiên không trừ các dục lậu. Nghe nhiều, chất chứa thành lầm lỗi. Đem cái nghe thọ trì Phật pháp. Sao không tự nghe tánh nghe của mình? Tánh nghe không phải tự nhiên sanh. Nhân thanh trần mà có tên gọi. Xoay lại cái nghe là thoát khỏi thanh trần.{ quyển 6 trg 399 pdf } [ " Phật mẫu chơn tam muội".Thiền định là mẹ của chư Phật.Kinh lăng nghiêm quyển 6]
*
Phật dạy: – Đại vương (vua Ba Tư Nặc)! Mặt ngài tuy nhăn, nhưng cái thấy thì tinh ròng, tính của nó chưa từng bị nhăn. Bị nhăn là thay đổi, không bị nhăn là không thay đổi. Cái thay đổi thì phải diệt vong; cái không thay đổi thì vốn không sinh không diệt, thì làm sao ở trong cái không sinh không diệt ấy lại nhận chịu cái sống cái chết của ngài, mà ngài còn dẫn thuyết của các ông Mạt Già Lê kia bảo rằng thân này sau khi chết là hoàn toàn mất hẳn? KINH THỦ LĂNG NGHIÊM Quyển 2 "tập 1" tr 50
«
Âm;SƠ Ư VĂN TRUNG ,NHẬP LƯU VONG SỞ, SỞ NĂNG KÝ TỊCH, ĐỘNG TỊNH NHỊ TƯỚNG, LIỂU NHIÊN BẤT SANH.
NHƯ THỊ TIỆN NĂNG, VĂN SỞ VĂN TẬN, TẬN VĂN BẤT TRỤ, GIÁC SỞ GIÁC KHÔNG, KHÔNG GIÁC TỊCH NHIÊN,
KHÔNG SỞ KHÔNG DIỆT, SANH DIỆT KÝ DIỆT, TỊCH DIỆT HIỆN TIỀN./ NGHĨA;Khi ở trong tánh nghe, thì pháp tu hay phương tiện liền được xả bỏ; khi lìa phương tiện, tất nhiên hai tướng động tịnh cũng chẳng phát sinh Như thị tiệm tăng, văn, sở văn tận, tận văn bất trú. Giác, sở giác không, không giác cực viên; không, sở không diệt, sinh diệt ký tận, tịch diệt hiện tiền .
Kinh lăng nghiêm: “NHÂN DUYÊN HOÀ HỢP ,HƯ VỌNG HỮU SANH;NHÂN DUYÊN BIỆT LY,HƯ VỌNG DANH BIỆT / nhân duyên hội ngộ cùng nhau,thì mới có sanh ra hư vọng giã tướng;Nhân duyên mà chia lìa,thì hư vọng giã tướng sẻ tan đi” .Cho nên sinh ,cũng chẳng thật sinh,mà diệt cũng chẳng phải thật diệt.
ÂM:“ phản văn văn tự tánh” nghĩa là; “xoay cái nghe nghe tự tánh”.:“phản văn tự tánh” tuyệt đối không phải dùng mắt xem, dùng tai nghe. Nếu dùng mắt xem, hoặc dùng tai nghe, ấy là đã chạy theo thanh sắc, bị vật chuyển gọi là xuôi dòng. Nếu chăm chú trong một niệm “không sanh không diệt”, không đuổi theo thanh sắc, gọi là ngược dòng. Ấy là “ cũng là “phản văn tự tánh .
Bất tác thánh tâm,danh thiện cảnh giới.nhược tác thánh giải,tức thọ quần tà / chẳng khởi thánh tâm thì là thiện cảnh giới. Nếu hiểu là cảnh giới của bậc thánh liền lạc vào bè lũ tà ma, đủ thấy hành nhân hễ hơi chấp trước liền bị mất chánh kiến, liền vào đường ma, cầu thăng hóa giáng, thậm chí đọa nê lê (địa ngục). Vì vậy, các pháp khác gọi là đạo khó hành,
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng, bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân /.dứt tưởng điên đảo từ vạn kiếp, chẳng trãi nhiếu kiếp chứng pháp thân .
“quy nguyên tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn, thánh tánh vô bất thông,thuận nghịch giai phương tiện" trở về tánh “bản nguyên” thì không hai , nhưng phương tiện đi vào thì có nhiều cửa,thánh tánh đâu chẳng thôngthuận nghịch đều là phương tiện .
Âm:“chân như bất thủ tự tánh, hốt nhiên nhất niệm vô minh khởi”nghĩa là chân như không giữ tự tánh thì vô minh sanh. Trong khi chúng ta tỉnh thì phải sáng suốt mà giữ cái tỉnh đó, nếu quên đi thì mê trở lại .
Âm:“chân như bất thủ tự tánh, hốt nhiên nhất niệm vô minh khởi”nghĩa là chân như không giữ tự tánh thì vô minh sanh. Trong khi chúng ta tỉnh thì phải sáng suốt mà giữ cái tỉnh đó, nếu quên đi thì mê trở lại .
“LÝ TẮC ĐỐN NGỘ, THỪA NGỘ TINH TIÊU,SỰ PHI ĐỐN TRỪ, NHƠN THỨ ĐỆ TẬN.”/Phần lý tánh thì có thể giác ngộ ngay tức khắc, nhờ sự giác ngộ này mà các nhận thức sai lầm đều tiêu tan. Nhưng phần sự tướng (hành động) thì không thể trừ diệt ngay lập tức mà phải lần lượt theo thứ lớp mới hết sạch.
“Đức như lai xuất hiện ở thế giói Ta Bà, sự giáo hóa chân chính của cỏi này là âm thanh và sự nghe thanh tịnh,Muốn thể nhập chánh định đều do sự nghe mà nhập”./ NHƯ LAI XUẤT TA BÀ,THỬ PHƯƠNG CHÂN GIÁO THỂ,THANH TỊNH TẠI ÂM VĂN. DỤC THỦ TAM MA ĐỀ,THẬT DĨ VĂN TRUNG NHẬP/ nói khác hơn cổ đức nói; “Hoa Thiền Gió lộng Tỏa ngàn Phương trăng Sang Năm Xưa Ngập Dặm Đường Hoa Lòng Đã Nở Từ Thuở Ấy, Nương Pháp Âm Về tận cố Hương” KINH LĂNG NHIÊM QUYỂN 6
KINH LĂNG NGHIÊM: Dịch:
Phật xuất ta bà giới : Đức như lai xuất hiện ở thế giói Ta Bà
Thử phương chân giáo thể : Cách giáo hóa cõi nầy
Thanh tịnh tại âm văn : Bén nhạy ở âm văn
Dục thủ tam ma đề : Muốn được tam ma đề
Thật dĩ văn trung nhập”: Phải từ nghe mà nhập
"VỚI LÚC KHÔNG TIẾNG ĐỘNG, TÁNH NGHE ĐÃ CHẲNG DIỆT; VỚI KHI CÓ TIẾNG VANG; THÍNH GIÁC CŨNG PHI SANH" đó là thường chơn thật.
Âm;“TRI KIẾN LẬP TRI THỊ VÔ MINH BỔN. TRI KIẾN VÔ KIẾN TỨC NIẾT BÀN”nghĩa;( Thấy biết mà lập thấy biết là
vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết là niết bàn,)
“Thị cố A Nan! nhữ kim đương tri: kiến minh chi thời, kiến phi thị minh; kiến ám chi thời, kiến phi thị ám; kiến
không chi thời, kiến phi thị không; kiến tắc chi thời, kiến phi thị tắc; tứ nghĩa thành tựu, nhữ phục ưng tri, KIẾN
KIẾN CHI THỜI, KIẾN PHI THỊ KIẾN; KIẾN DO LY KIẾN, KIẾN BẤT NĂNG CẬP...” “CÁI THẤY,THẤY HẰNG NGÀY
,THẤY CHƯA PHẢI THẬT THẤY. CÁI THẤY LÌA CÁI THẤY,THẤY NÀY KHÓ SÁNH VẬY”.
"Cho nên, A-Nan, bây giờ ông nên biết rằng:
Khi thấy sáng, cái thấy chẳng phải là sáng.
Khi thấy tối, cái thấy chẳng phải là tốị
Khi thấy không, cái Thấy chẳng phải là không.
Khi thấy ngăn bít, cái thấy chẳng phải là ngăn bít.
Bốn nghĩa đó đã thành rồi, ông lại nên biết: khi Thấy mà có tướng Thấy, cái Thấy đó chẳng phải là Tánh ThấỵCái Thấy mà do lìa tướng Thấy, đó là Tánh Thấy Siêu Việt (Kiến kiến chi thời,kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập).
ÂM: NHÂN MINH CHIẾU SANH SỞ ; SỞ LẬP TÁNH CHIẾU VONG./nghĩa: Từ sở minh lập ra năng minh, do tri đó mới sanh ra tri tịch và tri vọng; từ minh đó sanh ra năng minh sở minh, năng chiếu sở chiếu, hễ năng sở lập thì tánh Giác chiếu bị đánh mất.
"TÁNH SẮC TỨC KHÔNG, TÁNH KHÔNG LÀ GIÁC. GIÁC LÀ TÁNH CỦA SẮC PHÁP VẬY./“Không” sanh trong Đại
Giác, như bọt nước trong biển thì không những cùng tột tánh ...) ( lăng nghiêm tông thông)
" TÁNH SẮC CHÂN KHÔNG, TÁNH KHÔNG CHÂN SẮC, THANH TỊNH BẢN NHIÊN CHÂU BIẾN PHÁP GIỚI, TÙY CHÚNG SANH TÂM, ỨNG SỞ TRI LƯỢNG TUẦN NGHIỆP PHÁP HIỆN, DUY THỊ NHẤT TÂM, CỐ DANH CHƠN NHƯ”.
“TÁNH KIẾN GIÁC MINH, GIÁC TINH MINH KIẾN, THANH TỊNH BẢN NHIÊN, CHÂU BIẾN PHÁP GIỚI, TÙY CHÚNG SANH TÂM ỨNG SỞ TRI LƯỢNG, TUẦN NGHIỆP PHÁP HIỆN”.
Bài văn tán ngợi rằng :
Sáu vạn ba ngàn lời mười trang
Giáo, Hạnh, Lý; Không, Giả, Trung quán
Viên thông Hoa tạng Tín Hạnh giải
Chứng rồi Định Huệ xứ Niết Bàn
Phá vọng hiển chân, Chân Nhất thật
Phản văn nung ấm, ấm tiêu tan
Tội lỗi vô minh mười phương ngục
Tội ấy băng tiêu, tọa Phật tràng .
ÂM:
Chơn tánh hữu vi không
Duyên sanh cố như huyễn
Vô vi vô khởi diệt,
Bất thật như không hoa
1
Ngôn vọng hiện chư chơn,
Vọng chơn đồng nhị vọng,
Do phi chơn phi chơn,
Vân hà kiến sở kiến?
2
Trung gian vô thật tánh,
Thị cố nhược giao lô,
Kết giải đồng sở nhân,
Thánh phàm vô nhị lộ,
3
Nhữ quán giao trung tánh,
Không hữu nhị câu phi.
Mê hối tức vô minh,
Phát minh tiện giải thoát,
4
Giải kết nhân thứ đệ,
Lục giải nhất diệc vong,
Căn tuyển trạch viên thông,
Nhập lưu thành Chánh Giác,
5
Đà Na vi tế thức,
Tập khí thành bạo lưu.
Chơn phi chơn khủng mê,
Ngã thường bất khai diễn
6
Tự tâm thủ tự tâm,
Phi huyễn thành huyễn pháp
Bất thủ vô phi huyễn,
Phi huyễn thượng bất sanh,
7
Huyễn pháp vân hà lập?
Thị danh Diệu Liên Hoa,
Kim Cang Vương Bửu Giác
Như huyễn Tam Ma Đề,
8
Đờn chỉ siêu vô học
Thử A Tỳ Đạt Ma,
Thập phương Bạt Già Phạn,
Nhất lộ Niết Bàn môn.
NGHĨA:
Tánh hữu vi vốn không,
Duyên sanh nên như huyễn
Vô vi không sanh diệt,
Chẳng thật như hoa đốm,
1
Nói vọng để hiển chơn,
Vọng chơn là hai vọng
Phi chơn phi bất chơn
Làm sao kiến sở kiến?
2
Trong đó chẳng thật tánh,
Nên như sậy gác nhau.
Thắt, mở đồng một nhân,
Thánh phàm chẳng hai đường
3
Ngươi xem tánh gác nhau,
Không, Hữu thảy đều sai.
Mê muội tức vô minh,,
Phát minh liền giải thoát
4
Mở, thắt theo thứ tự,
Lục mở nhất cũng tiêu
Chọn căn nào viên thông,
Nhập lưu thành Chánh Giác.
5
Đà Na (thức thứ tám) thức vi tế,
Tập khí như nước dốc.
Sợ chấp Chơn phi chơn,
Nên ta chẳng khai giảng
6
Tự tâm chấp tự tâm,
Phi huyễn thành pháp huyễn.
Chẳng chấp chẳng phi huyễn
Phi huyễn còn chẳng sanh,
7
Pháp huyễn làm sao lập?
Đây gọi Diệu Liên Hoa
Bửu giác như Kim Cang
Tu theo Tam Ma Đề,
8
Búng tay siêu vô học
Pháp này chẳng gì bằng,
Mười phương chư Như Lai,
Chỉ một cửa Niết Bàn.
B.S :Dương văn Lộc