Ngô Thì Nhậm : “Thế chiến quốc thế xuân thu,gặp thời thế,thế thời phải thế”.
“Ngựa bất kham đưa người cởi đến chổ hiển nạn,voi bất phục chở người rời khỏi thành đô Niết bàn”/ “Sáu căn của phàm phu chính là ngựa bất kham,voi bất phục ấy”! (*)
“Tất cả chúng sanh hữu lậu phàm phu đối với đời vị lai họ “man man tiền lộ” “NGHI VÕNG TRÙNG TRÙNG”.
Ngài Từ Minh lại nói “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”.
Âm:
Vạn Pháp giai tùng Tâm tự hiện,
Lục Phàm Tứ thánh thể hà thù.
Mê thời vọng hiện thiên sai biệt,
Nhất niệm hồi Quang tánh tự tri.
Âm:
Họa tùng khẩu xuất,
Bệnh tùng khẩu nhập.
Âm:
Ái bất nhiễm bất sanh Ta-bà,
Niệm bất nhất bất sanh Tịnh-độ.
Kinh Duy Ma Cật Phẩm Phật Quốc nói :
Tam chuyển pháp luân ư đại thiên,
kỳ luân bổn lai thường thanh tịnh .
Âm:
Yếu vô phiền não, yếu vô cầu
Bổn phận tùy duyên, mạc cương cầu
Vô ích hữu ngôn hưu trước khẩu
Phi can thế sự mạc đương đầu
Nhân gian phú quý hoa gian lộ,
Chỉ thượng công danh thủy thượng âu.
Khám phá thế tình thiên lý thú,
Nhân sanh hà dụng khổ vinh mưu .
Âm:
Trục lợi tham danh mãng thế gian
Bất như phá nạp đạo nhân nhàn
Lung kê hữu thực than ngoa cận
Giả hạc vô lương thiện địa khoan
Phú quý bá niên nam bảo thủ
Luân hồi lục đạo dị tuần hoàn
Khuyến quân cấp tảo tu hành lộ
Nhứt thất nhân thân vạn kiếp nan
Bảo Ý Đồng Tử tiền thần của Quan Âm:
Nhất thiết chư Pháp Không
Vân hà vấn danh hiệu
Quá khứ pháp dĩ diệt
Đường lai pháp vị sánh
Hiện tại pháp bất trụ
Nhân giả vấn thùy danh
Không pháp diệt phi nhân
Phi long phi la sát
Nhân dữ phi nhân đẳng
Nhất thiết bất khả đắc
Bảo Trượng đồng tử tiền thần của Thế Chí Bồ Tát:
Danh danh giả tất Không
Danh danh bất khả đắc
Nhất thiết Pháp vô danh
Nhi dục vấn danh tự
Dục cầu chân thật danh
Vị tằng sở kiến văn
Phù sanh pháp tất diệt
Vân hà như vân danh
Thuyết danh tự ngữ ngôn
Trai thị giả thi kiếp.
Âm:
Điểu ngữ,kinh thinh giai Đạo Lý,
Sương đầu,lạc diệp thị Thiền cơ .
Âm:
Thập phương đồng tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm Không cập đệ quy
Tổ Hoàng Bá:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường,
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Trang Tử:
Họa hổ họa bì nan họa cốt,
Tri nhân tri diện bất tri tâm.
Âm:
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
Âm:
Thiên đường hữu lộ, vô nhân vấn,
Địa ngục vô môn, hữu khách tầm.
Âm:
Bần cư trung thị vô nhân vấn,
phú tại sơn lâm hữu khác tầm
Nghĩa
Vạn pháp đều do tâm mà hiện,
Sáu phàm, bốn Thánh cũng như như,
Vọng tâm mê tánh ngàn sai khác,
Một phút hồi quang lý nhất Như.
Dịch:
Tai họa từ miệng mà ra,
bệnh tật từ miệng mà vào.
Dịch:
Ái không nhiễm không sanh lại cõi Ta-bà,
niệm không nhất tâm thì không sanh về cảnh tịnh độ.
Nghĩa:
Ba lần chuyển pháp luân trong cõi đại thiên
Pháp luân kia xưa nay hằng thanh tịnh.
Thoát dịch:
Muốn không phiền não, muốn không sầu
An phận tùy duyên chớ mong cầu
Vô ích lắm lời đừng mở miệng
Đừng can việc thế chớ đương đầu
Giàu sang dương thế sương bông giáng
Vinh hiển trong đời bọt nước sâu
Có biết tháng ngày qua mau lẹ
Người đời khổ sở cứ lo âu.
Thoát dịch:
Theo lợi ham danh ở thế gian
Chi bằng an phận sống thanh nhàn
Gà kia mập mạp gần lò chảo
Hạt nọ ốm o, bay thênh thang
Phú quý trăm năm không giữ được
Luân hồi sáu nẻo mãi tuần hoàn
Khuyên người nên biết lo tu gấp
Chớ mất thân người vạn kiếp nan.
Nghĩa:
Hết thảy các pháp “không”
Tại sao hỏi tên hiệu ?
Pháp quá-khứ diệt rồi
Pháp đương - lai chưa sinh.
Pháp hiện tại không trụ,
Nhân giả hỏi tên ai ?
Pháp “không” không phải trời.
Không phải rồng, La-sát
Nhân cùng với phi-nhân
Hết thảy không thể được.
Nghĩa:
Tên, tên người đều không
Tên, tên không thể được
Hết thảy pháp không tên.
Mà muốn hỏi tên tự ?
Muốn cầu tên chân-thực,
Chưa từng bị thấy, nghe
Kìa pháp sinh liền diệt,
Làm sao hỏi tên được ?
Nói danh-tự, ngữ-ngôn
Đều là giả bày đặt.
Nghĩa là:
Chim hót,tụng kinh đều Đạo Lý,
lá rụng,sương rơi ẩn Thiền Cơ.
Nghĩa:
Mười phương cùng tụ họp về đây
Người người cùng học đạo vô vi
Đây là trường thi của Phật
TÂM KHÔNG mới được đậu”.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Nghĩa :
Vẽ cọp vẽ da, khó vẽ xương,
Biết người biết mặt, không biết lòng.
Dịch nghĩa:
Có duyên gặp mặt thì ngàn dặm cũng sẽ gặp lại,
Không duyên thấy mặt cũng bằng không.
Dịch nghĩa:
Thiên đường có lối không ai đến,
Địa ngục không cửa lắm kẻ vào.
Dịch nghĩa:
Nghèo giữa chợ đông ai thèm hỏi,
giàu tại rừng sâu lắm kẻ thăm.
“Tất cả Pháp không sinh. Tất cả Pháp không diệt. Ai hiểu được nghĩa này. Thì Chư Phật hiện tiền. Nào có đến có đi”.
"Ta bà uế độ do tâm uế,cực lạc thanh lương tự tánh lương"
“Kinh Bác Nhã và Đại Trí Độ Luận Đức Phật dạy:
"DO NGÃ BẤT KHẢ ĐẮC,NÊN CÁC PHÁP TẬP TÁN"
Nghĩa là do "CÁI TA" không thể dựng lập nên các Pháp chỉ là tướng duyên hợp và Ly tán”.
“Phàm tiến trình tu tập của người đệ Tử Phật,sẽ đi qua 4 giai đoạn xã bỏ:
1/.BỎ HUYỄN CẢNH....-Dùng Huyễn tâm.
2/.BỎ HUYỄN TÂM......-Dùng huyễn Trí.
3/.BỎ HUYỄN TRÍ.......-Dùng Huyễn Không.
4/.BỎ HUYỄN KHÔNG.-Quán Như Thị.
(1).-Nghĩa là cảnh Ta Bà này là giả huyễn,muốn xã bỏ tham luyến phải dùng cái Tâm muốn tu để xa lìa.
(2).-Cái Tâm muốn Tu cũng là Huyễn,muốn xã bỏ phải dùng Huyễn Trí là các pháp tham thiền,niệm Phật,trì chú v.v..
(3).-Tham thiềm,niệm Phật v.v... cũng là huyễn Pháp.muốn xã bỏ phải quán Huyễn Không (Ngã không+pháp Không).
(4).-Cái "Không" cũng là Huyễn,phải xã bỏ ,bằng cách "quán Như Thị".
Cung oán ngâm khúc
Nguyễn Gia Thiều
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời kia quen thói má hồng đánh ghen.