TỨ TẤT ĐÀN
Tứ tất đàn là bốn phép thành tựu viên mãn Phật đạo. Trong cuộc đời thuyết pháp của đức Thế Tôn, Ngài luôn diệu dụng tứ tất đàn làm cho chúng sinh mau chứng ngộ.
1) Thế giới tất đàn: Những điều Như Lai phương tiện tùy thuận chúng sinh mà nói (như người, vật, nhà, xe, núi, voi, mưa nắng v.v...)
2) Vị nhân tất đàn: Như Lai tùy căn cơ trình độ của mỗi người mà dạy phép này phép khác khiến họ dễ tiếp thu, mau tiến hóa.
3) Đối trị tất đàn: Như Lai tùy thuận chỗ mê lầm của chúng sinh mà nói những pháp đối trị như lương y tùy bệnh cho thuốc.
4) Đệ nhất nghĩa tất đàn: Khi thấy cơ duyên của chúng sinh đã thuần thục Ngài không dùng phép tương đối như trên nữa mà khai thị trung đạo thuyết cái thật tướng của các pháp khiến họ sớm đạt chân lý.
*
*
Xá-lợi-phất nói: “Sự giải thoát không thể diễn giải bằng lời, vì vậy tôi không biết nói gì”.
Thiên nữ nói: “Ngôn thuyết và văn tự đều là tướng của giải thoát. Vì sao? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa; văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa. Vì vậy, thưa ngài Xá-lợi-phất, không có việc lìa văn tự mà diễn thuyết giải thoát. Tại sao? Tất cả pháp đều là tướng của giải thoát”.
Xá-lợi-phất hỏi: “Vậy cô há không muốn nói rằng dâm, nộ, si cũng là giải thoát?”
Thiên nữ đáp: “Phật vì người tăng thượng mạn mà nói rằng xa lìa dâm, nộ, si là giải thoát đó thôi. Với người không còn tăng thượng mạn, Phật nói tự tính của dâm, nộ, si tức thị là giải thoát”.
Xá-lợi-phất ca ngợi: “Lành thay, lành thay, Thiên nữ! Cô đã sở đắc gì, chứng nghiệm cái gì mà biện tài xuất chúng như vậy?”
Thiên nữ đáp: “Tôi không sở đắc gì cũng không chứng nghiệm gì mà được biện tài như vậy. Vì sao? Nếu có sở đắc, sở chứng, thì trong Phật pháp đó là tăng thượng mạn“.
Xá-lợi-phất hỏi: “Trong ba thừa, cô chí hướng thừa nào?” Thiên nữ đáp: ‘ “Khi cần giảng pháp Thanh-văn để chuyển hóa chúng sinh, tôi là Thanh-văn. Khi cần giảng pháp nhân duyên để chuyển hóa chúng sinh, tôi là Bíchchi-phật. Khi cần pháp đại bi để chuyển hóa chúng sinh, tôi là Đại thừa. Thưa Xá-lợi-phất, như người bước vào rừng hoa chiêm-bặc chỉ ngữi thấy mùi hương chiêm-bặc thơm át hẳn các mùi khác; cũng vậy, người bước vào nhà này chỉ ngữi thấy mùi hương công đức Phật và chẳng còn thiết mùi hương Thanh-văn hay Bích-chi-phật.(Kinh Duy Ma Cật phẩm quán chúng sinh pdf trg 199 https://hoavouu.com/images/file/PnEkKWAx0QgQAAkl/duymacatsothuyet-tuesy.pdf )
*
Bồ Tát Vô Ngôn (Kinh Đại Bửu Tích): “Phiền Não phật pháp và bồ đề không có sai biệt .Nếu trong phiền não mà thấy Bồ Đề là như như kiến. Nếu rời phiền não Thấy Bồ đề là điên đảo kiến”.
*
(Kinh Đại Bửu Tích)Đức phật nói: “Tự chẳng đều phục có thể điều phục người,Tự chẳng giải thoát có thể giải thoát người,Tự chẳng tịch tĩnh có thể tịch tĩnh người,Tự chẳng Niết bàn làm cho người được Niết bàn thì không bao giờ có lẻ ấy. Nếu tự điều phục rồi khiến người điều phục ,Tự đã giải thoát khiến người giải thoát ,Tự Đã tịch tĩnh khiến người tịch tĩnh,Tự đã Niết bàn khiến người Niết bàn đây thì có lẻ ấy”.
*
Thiền sư Vân Môn – tổ thiền phái Vân Môn – một hôm thượng đường, đưa cây gậy lên nói: “Phàm phu cho nó là thực nên gọi nó là có, Nhị thừa phân tích gọi nó là không,Duyên giác gọi nó là có mà hư ảo,Bồ Tát xem bản thể hiện tại của nó là không, ... 凡夫實謂之有。二乘析謂之無。緣覺謂之幻有。菩薩當體即空。 ... Phàm phu thực vị chi hữu, Nhị thừa tích vị chi vô, Duyên Giác vị chi huyễn hữu, Bồ Tát đương thể tức không..
Thiên Thái Trí Giả:
A Hàm thập nhị, Phương Ðẳng bát,
Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên .
Nghĩa:
Mười hai A Hàm, Phương Ðẳng tám,
Hai mươi hai năm nói Bát Nhã
Hoa Nghiêm đầu tiên ba bảy ngày
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng tám năm.
Theo bài kệ này của một cổ đức Trung Quốc thì Phật, sau khi đắc đạo, giảng Kinh A Hàm trong 12 năm để dắt dìu hàng sơ cơ thấp kém. Nội dung của A Hàm là Tứ đế. Sau đó Phật lần lần thuyết các kinh cao hơn, như các bộ Phương Ðẳng trong 8 năm, các bộ Bát Nhã trong 22 năm, bộ Hoa Nghiêm đã được Phật thuyết trong 21 ngày sau khi đắc đạo, song không phải cho hàng thấp kém thanh văn mà cho các thượng căn Bồ tát, và năm sau cùng Phật thuyết Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn.