PHI TÂM PHI PHẬT
Hỏi: Như trên nói ý chỉ tức tâm tức Phật. Phật Tổ ở Tây Thiên, Trung Quốc đồng tuyên nói, lý sự rõ ràng như thấy trước mắt. Tại sao lại nói phi tâm phi Phật ?
Đáp: Tức tâm tức Phật là biểu thuyên, là trực tiếp biểu thị chân lý để thân chứng tự tâm, thấy tính rõ ràng. Còn phi tâm phi Phật là già thuyên, là che giấu tội lỗi, dẹp nghi phá chấp, dẹp trừ tình kiến, y thông ý giải nhận lầm sự việc, vì tâm Phật đều bất khả đắc, cho nên nói là phi tâm phi Phật. Đây là pháp môn quét sạch năng tâm, quyền lập đốn giáo, dứt sạch không nương gá, đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, cho nên đây cũng là lối vào thẳng tắt. Nếu viên giáo là pháp tình tận thể lộ, có già có biểu, phi tức phi ly, thể dụng tương thâu, lý sự vô ngại. Học giả ngày nay đã không có con mắt trí tuệ, lại còn thiếu sự học rộng, nghiêng nặng về việc ngăn chặn tội lỗi mà không thấy lý viên thường, không biện chủ tớ, nào phân chân ngụy. Như bỏ đi biển cả mà giữ lại hòn bọt, bỏ vàng lấy gạch, nắm bọt nước cho là của báu, cho sỏi đá là châu ngọc. Do đó kinh nói: “Như kẻ trộm ngu si, vứt bỏ vàng ngọc, khuân lấy gạch ngói”. Nay biên tập sách này chủ yếu cũng vì việc trên, bởi tâm với Phật đều là danh tự thế gian, thị cùng với phi đều là cái thấy phân biệt, bàn suông nghĩ rỗng làm sao trở về chân thật. Do đó Tổ sư nói: “Nếu nói tâm này là Phật như trâu có sừng, nếu nói phi tâm phi Phật như thỏ không sừng, đều là đối dãi gượng gọi là chuyện nhảm nhí”.Tập2 Q25 sách 175 doxc 19 (chương 25 đoạn đầu nói pháp hoa)
(--)Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Phật bảo A-nan: Nay ta mở bày phương tiện chân thật nói với ông, ông vẫn chưa tỏ ngộ, mê muội cho là tự nhiên thì tự nên xét rõ cái thể tự nhiên. Ông hãy xem trong cái thấy diệu minh này lấy cái gì làm tự thể ? Cái thấy này hoặc lấy sáng làm tự thể, hoặc lấy tối làm tự thể, hoặc lấy thông làm tự thể, hoặc lấy bít làm tự thể. Này A-nan, nếu sáng là tự thể thì lẽ ra không thấy tối; nếu lấy thông làm tự thể thì lẽ ra không thấy bít. Như vậy cho đến lấy tối làm tự thể thì lúc sáng tính thấy đoạn diệt làm sao thấy sáng, cho nên biết tính hằng thường chẳng theo duyên sinh. Nếu lấy pháp huyễn hóa sáng tối làm tự thể thì khi pháp sáng tối duyên tan rả, tính này phải đoạn diệt theo”.
Hỏi: Bản tính đã chẳng phải tự nhiên thì phải là tính nhân duyên ?
Đáp: Nếu tính này lấy nhân duyên làm thể thì lấy pháp gì làm nhân, pháp gì làm duyên cần phải xác định thể tính chân thật. Như kinh nói: “A-nan nói nếu tính thấy nhiệm mầu này chẳng phải tự nhiên, hôm nay con phát minh là tính nhân duyên. Tâm vẫn chưa tỏ ngộ xin hỏi Như Lai nghĩa này làm sao hợp tính nhân duyên ? Đức Phật dạy: Ông nói là nhân duyên, ta lại hỏi ông, nay ông nhân thấy tính thấy hiện tiền, cái thấy này là nhân sáng có thấy, hay nhân tối có thấy, hay nhân thông có thấy, hay nhân bít có thấy. Này A-nan, nếu nhân sáng mà thấy thì lẽ ra không thấy tối; còn nhân tối mà thấy thì lẽ ra không thấy sáng. Như thế cho đến nhân thông nhân bít giống như sáng, tối.
Lại nữa A-nan, cái thấy này lại duyên sáng thấy, hay duyên tối thấy, hay duyên thông thấy, hay duyên bít thấy. Này A-nan, nếu duyên thông thấy thì lẽ ra không thấy bít; nếu duyên bít thấy thì lẽ ra không thấy thông. Như thế cho đến duyên sáng duyên tối cũng giống như thông, bít. Nên biết tính giác diệu minh như thế chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, cũng chẳng phải tự nhiên, chẳng phải chẳng tự nhiên, vô phi bất phi, vô thị bất thị! lìa tất cả tướng tức là tất cả pháp, nay ông làm sao để tâm trong đó, dùng các danh tướng hí luận thế gian mà phân biệt. Như dùng bàn tay nắm bắt hư không chỉ càng lao nhọc, ông làm sao nắm bắt được hư không?
A-nan bạch Phật: Thế Tôn, tính diệu giác ắt chẳng phải nhân, chẳng phải duyên. Thế Tôn, tại sao thường nói với các tỳ-kheo tính thấy có bốn thứ duyên, đó là do thông, do sáng, do tâm, do mắt, nghĩa này thế nào ?
Phật bảo A-nan: Ta nói các tướng nhân duyên ở thế gian chẳng phải là đệ nhất nghĩa. A-nan, ta lại hỏi ông những người thế gian nói tôi thấy, thế nào gọi là thấy ? Thế nào gọi là không thấy ?
A-nan thưa: Người thế gian nhân ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đèn đuốc mới thấy các thứ tướng gọi đó là thấy. Nếu không có ba thứ ánh sáng này thì không thể thấy. Này A-nan, nếu lúc không có sáng gọi là không thấy thì lẽ ra không thấy tối. Nếu thấy tối, đây chỉ là không có sáng tại sao không thấy ? A-nan, nếu lúc tối không thấy sáng gọi là không thấy; nay tại lúc sáng không thấy tướng tối vẫn gọi là không thấy. Hai tướng như thế đều gọi là không thấy, nếu hai tướng lại tự xâm chiếm nhau, chẳng phải tính thấy của ông tạm không có trong ấy. Như vậy thì biết cả hai đều gọi là thấy, làm sao không thấy ?! Thế nên A-nan, nay ông nên biết lúc thấy sáng cái thấy chẳng phải là sáng, lúc thấy tối cái thấy chẳng phải là tối, lúc thấy thông cái thấy chẳng phải là thông, lúc thấy bít cái thấy chẳng phải là bít, bốn nghĩa thành tựu. Ông lại nên biết lúc thấy cái thấy thì cái thấy chẳng phải là thấy; thấy còn lìa cái thấy thì cái thấy không thể đến, làm sao còn nói nhân duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp! Các ông là hàng Thanh văn hẹp hòi kém hiểu biết không thể thông đạt thật tướng thanh tịnh. Nay ta dạy các ông phải khéo suy nghĩ, không được lười biếng mệt mỏi đi trên con đường bồ-đề, cho nên biết rằng khi nói nhân duyên tự nhiên đều thuộc về ngôn luận thế gian, bàn về có không, chân tục đều là tâm thức phân biệt, lúc đang thấy tính há còn thấy nghe, khi đang phát minh đâu rơi vào nói năng suy nghĩ”.
Hỏi: Tính diệu minh này đã chẳng phải nhân duyên, tự nhiên thì không có một pháp nào không sinh ra từ sự hòa hợp. Như không có chân như sở chứng thì do đâu phát ra diệu trí năng chứng, cảnh trí hòa hợp có thể thành thấy tính chăng ?
Đáp: Nếu ngoài trí có chân như thì có sở chứng; ngoài chân như có trí thì có năng chứng. Nay ngoài trí không có chân như, ngoài chân như không có trí, muốn đem pháp gì cho là hòa hợp, chẳng phải hòa hợp ?
Như kinh nói: “Phật bảo A-nan: Tuy ông trước đã tỏ ngộ tính bản giác diệu minh chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên, song vẫn chưa rõ cái giác ấy vốn chẳng phải hòa hợp và không hòa hợp. A-nan, nay ta lại lấy việc trước mắt ra hỏi ông. Nay ông vẫn đem tính nhân duyên hòa hợp tất cả vọng tưởng thế gian mà tự nghi hoặc chứng bồ-đề tâm do hòa hợp khởi thì kiến tinh diệu tịnh của ông hiện nay là cùng với sáng hòa, hay là cùng với tối hòa, hay là cùng với thông hòa, hay là cùng với bít hòa. Nếu cùng với sáng hòa thì ông thấy rõ cái sáng hiện tiền chỗ nào thấy lẫn lộn. Tướng thấy có thể biện biệt thì làm sao lẫn lộn hình tượng ? Nếu chẳng phải cái thấy thì làm sao thấy sáng ? Nếu chính là cái thấy thì làm sao thấy cái thấy ? Nếu cái thấy viên mãn thì chỗ nào hòa với cái sáng ? Nếu cái sáng viên mãn không hòa hợp với cái thấy thì chắc chắn cái thấy khác với cái sáng. Lẫn lộn thì mất đi tên gọi tính sáng kia, lẫn lộn thì mất đi tính sáng cùng hòa với sáng là vô nghĩa. Tối, thông, bít cũng như thế.
Lại nữa A-nan, kiến tinh diệu tịnh là cùng sáng hợp, hay cùng tối hợp, hay cùng thông hợp, hay cùng bít hợp. Nếu cùng sáng hợp thì khi tối đến tướng sáng đã mất, cái thấy này chẳng cùng với tối hợp làm sao thấy tối ? Nếu lúc thấy tối, chẳng cùng tối hợp, cùng sáng hợp thì lẽ ra chẳng thấy sáng. Đã chẳng thấy sáng thì làm sao cùng sáng hợp, biết rõ sáng chẳng phải tối. Tối, thông, bít cũng như thế.
A-nan bạch Phật: Thế Tôn, theo con nghĩ, diệu giác này vốn cùng với các duyên trần và tâm niệm lự chẳng hòa hợp chăng ?
Phật dạy: Ta lại hỏi ông kiến tinh vi diệu này chẳng phải hòa hợp là chẳng hòa với sáng, hay chẳng hòa với tối, hay chẳng hòa với thông, hay chẳng hòa với bít. Nếu chẳng hòa với sáng thì cái thấy cùng cái sáng ắt có ranh giới. Ông hay quan sát kỹ, chỗ nào là sáng, chỗ nào là thấy; nơi thấy nơi sáng từ cái gì là ranh giới ? A-nan, nếu ở trong chỗ sáng ắt không có cái thấy thì không đến với nhau, tự không biết tướng sáng kia vẫn còn, ranh giới làm sao thành ? Tối, thông, bít cũng như thế.
Lại kiến tinh vi diệu chẳng phải hòa hợp là chẳng hợp với sáng, hay chẳng hợp với tối, hay chẳng hợp với thông, hay chẳng hợp với bít. Nếu chẳng hợp với sáng thì cái thấy với cái sáng trái nhau, như lỗ tai cùng với cái sáng hoàn toàn không tiếp xúc nhau, cái thấy còn không biết tướng sáng tồn tại làm sao phán xét cái lý cùng với sáng hợp phi hợp. Tối, thông, bít cũng như thế.
(...) Phật bảo Phú-lâu-na: Tuy ông đã trừ nghi nhưng lậu hoặc chưa hết, ta sẽ lấy sự việc trước mắt ở thế gian hỏi ông. Ông có nghe nói Diễn-nhã-đạt-đa trong thành Thất-la, buổi sáng nọ bỗng lấy gương soi mặt, nhìn thấy đầu mình trong gương, giận trách cái đầu chẳng thấy mặt mũi cho là loài ly mị liền điên cuồng bỏ chạy. Ý này thế nào ? Người này vì sao vô cớ điên cuồng bỏ chạy.
Phú-lâu-na nói: Người này điên cuồng không có duyên cớ.
Phật dạy: Diệu giác minh viên vốn viên minh diệu, đã gọi là vọng làm sao có duyên cớ. Nếu có duyên cớ thì làm sao gọi là vọng ? Từ các vọng tưởng xoay chuyển làm nhân cho nhau, từ mê tích lũy mê trải qua trần kiếp, tuy Phật phát minh chỉ dạy mà vẫn chưa phản tỉnh. Như vậy mê nhân, nhân mê tự có, biết mê không có nhân, vọng không có chỗ nương, sinh còn không có thì làm gì có diệt ?
Đắc bồ-đề như người lúc thức mà nói việc trong mộng, tâm sáng suốt thì lý do gì muốn lấy vật trong mộng ? Huống chi nhân duyên vốn không thật có, như Diễn-nhã-đạt-đa trong thành kia há có nguyên nhân, tự sợ đầu mình mà chạy, bỗng nhiên hết điên cuồng, đầu chẳng phải ở bên ngoài có, cho dù chưa hết điên cuồng thì đầu vẫn không mất. Này Phú-lâu-na, tính vọng cũng như thế do đâu mà có, chỉ cần ông chẳng theo thế gian phân biệt chúng sinh nghiệp quả, ba thứ tương tục, ba duyên dứt, ba nhân chẳng sinh thì tính điên cuồng Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm ông tự hết, hết là Bồ-đề. Tâm trong sáng thù thắng này vốn trùm khắp pháp giới, chẳng từ nơi người mà được, đâu nhờ khổ nhọc tu chứng.
(...) Phật bảo A-nan: Nếu như nhân duyên tính điên cuồng Diễn-nhã-đạt-đa được diệt trừ thì tính không điên cuồng tự nhiên xuất hiện, lý nhân duyên tự nhiên tận cùng nơi đây. A-nan, đầu Diễn-nhã-đạt-đa vốn tự nhiên, vốn là như thế, không như vậy chẳng phải tự; do nhân duyên gì mà sợ đầu điên cuồng bỏ chạy ? Nếu cái đầu tự nhiên có nhân duyên nên điên cuồng thì sao chẳng tự nhiên nhân duyên nên mất. Cái đầu không mất, sự điên cuồng lo sợ vu vơ không thật, từng không biến đổi thì đâu nhờ nhân duyên! Sự điên cuồng tự nhiên vốn có sự lo sợ, lúc chưa điên thì sự điên cuồng trốn nơi nào ? Không điên tự nhiên, đầu vốn không hư vọng thì làm sao điên cuồng bỏ chạy ?
Nếu ngộ cái đầu của chính mình thì biết sự điên cuồng bỏ chạy, nhân duyên tự nhiên đều là hí luận, cho nên ta nói ba duyên hết là tâm bồ-đề. Tâm bồ-đề sinh thì tâm sinh diệt dứt. Đây chỉ là sinh diệt, sinh diệt đều dứt thì vô công dụng đạo. Nếu có tự nhiên như thế thì biết rõ tâm tự nhiên sinh thì tâm sinh diệt hết. Đây cũng là sinh diệt, không sinh diệt gọi là tự nhiên. Cũng như các tướng thế gian trộn lẫn thành một thể gọi là tính hòa hợp. Phi hòa hợp gọi là tính bản nhiên. Bản nhiên phi nhiên, hòa hợp phi hợp, hợp nhiên đều lìa, ly hợp đều phi. Câu này mới gọi là pháp không hí luận, bồ-đề niết-bàn vẫn còn xa vời.
Giải thích: Nếu biết sự điên cuồng bỏ chạy là do nhân duyên, do tự nhiên đều là hí luận. Nếu thật sự phát minh biết rõ cái đầu của mình, chân tính linh diệu chẳng phải động, chẳng phải tịch, chẳng phải được chẳng phải mất, chẳng phải sinh, chẳng phải diệt,chẳng phải hợp, chẳng phải lìa thì biết từ vô thỉ đến nay bôn ba ba cõi, rong ruổi đều là mê muội, là điên đảo, là vọng, là hư, đều là tình tưởng kết thành, thức tâm cổ động, thì biết chân tính bản giác, chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, cũng chẳng phải tự nhiên, chẳng phải chẳng tự nhiên, chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng phải chẳng phải hòa hợp, đều thành hí luận, đều rơi vào tà tư, lại không trụ chân tâm, đâu còn danh tướng và nơi chốn. Nếu muốn dùng thức tâm suy lường, nghĩa cú diễn bày mà cầu sự chân thật như buộc gió bắt bóng có thể được sao ?
Do đó Tổ sư nói: Phi tự nhiên, phi nhân duyên, diệu trong diệu, huyền trong huyền, sum la vạn tượng hiện trong ánh sáng ấy, tìm không thấy cội nguồn.
Phân tích như trên là vì những kẻ chưa biết cái đầu của mình, chẳng rõ sự điên cuồng bỏ chạy, khiến họ lìa tứ cú tuyệt bách phi, dứt đường ngôn ngữ suy tư, đây mới là dứt trừ pháp hí luận phân biệt thế gian; đối với đại đạo kiến tính vẫn còn xa vời, cần phải đích thân đến, không đợi nói nữa, như gương soi dung mạo chỉ cần tâm nhãn giống nhau, cũng như người uống nước nóng lạnh tự biết. Cho nên nói chỉ có chứng mới biết, khó có thể lường, người chưa đến luống tự cuồng mê.
Hỏi: Pháp môn vô lượng đều có công phá chấp hiển đạo, vì sao riêng ca ngợi nhất tâm cho là chủ yếu ?
Đáp: Đây là sự bắt đầu của khởi hoặc, là sự mở đâu của phát chân, là gốc của mê ngộ, là nguyên do của nhiễm tịnh, cho nên nói chí diệu linh thông gọi đó là đạo thì ngoài tâm không có đạo, ngoài đạo không có tâm, vi diệu sâu xa phàm phu, tiểu thừa không có phần, Bồ-tát biết một phần, chỉ có Phật thấu suốt. Vì hàng nhị thừa chỉ giác ngộ tứ trụ mà chẳng thấu rõ vô minh nên thức do vô minh sinh khởi chẳng phải cảnh ấy. Khi Bồ-tát Thập tín mới phát tâm liền quán cái thể của duyên khởi nhân quả của tự tính bản thức được thành tựu chính tín. Nhiếp luận nói: “Bồ-tát sơ khởi nên quán các pháp nhân duyên như thật”. Đây là ý nghĩa này. Nhân duyên như thật không gì chẳng phải bản thức nhất tâm, đây là sự mở đầu của phát chân. Luận Khởi Tín nói: “Do vì chẳng biết nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ưng, vô minh phân biệt sinh các nhiễm tâm”. Nhất pháp giới là chân tâm không hai, đây không phải là nhất trong toán số, nghĩa là như lý hư dung bình đẳng không hai cho nên gọi là nhất, đây là sự bắt đầu của khởi hoặc.Tâp2, Q32, trg414-422, doxc trg10 - 17
Thọ chư nhân duyên cố
Luân chuyển sinh tử trung
Bất thọ chư nhân duyên
Thị danh vi niết-bàn.TL,ch25,Tụng9
NHÂN DUYÊN & TỰ NHIÊN ĐIỀU HÍ LUẬN
Lại từ thức thứ tám biến khởi tướng phần của căn thân, khí thế gian, bốn đại trong ngoài làm tự tướng.
Lại do vọng niệm khởi cố nhận biết, do đó vạn tượng sum la hiện rõ ràng. Nếu có thể xét cùng nguyên nhân, thể hội cội gốc đều là tính tướng của tự tâm. Mọi thứ đẹp, xấu, yêu, ghét đều do ý thức so đo phân biệt làm thành. Đã biết căn do phải giữ gìn chính trí, chỉ cần trừ sự soi lại tính giác thì một niệm chẳng sinh, tự nhiên tâm cảnh đều không, trước sau cùng bặt, cho nên biết tính của bảy đại chân thật viên dung, mỗi mỗi đại đều trùm khắp pháp giới đều là một thể, như bảy khối băng dùng lửa nung tan thành nước; cũng như tấm lưới nhân-đà-la đồng mà chẳng đồng, như nước và băng khác mà chẳng khác, cho đến năm ấm, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới v.v... đều đầy khắp pháp giới, mỗi một vi trần cũng đầy pháp giới, mỗi một mảy lông cũng đầy pháp giới, mỗi một thân tâm cũng đầy khắp Như Lai tạng. Như trong biển Hương Thủy Phật thường vì các Bồ-tát nói tất cả pháp, chẳng thấy tướng Bồ-tát, chẳng thấy tướng tà sư, chẳng thấy tướng sinh trụ dị diệt, cho nên đều hợp chân không, đầy khắp thực tế; như nói lông rùa, sừng thỏ, sóng nắng, thành càn-thát-bà, chỉ có tên gọi không có thật thể. Như các căn của thấy nghe; ấm, nhập, cảnh của danh sắc cũng chỉ có tên đều không có thật thể. Nay đem việc thế gian đều biết lông rùa hư dối dễ hiểu phá trừ cái chấp danh sắc hiện tại hư vọng khó hiểu, trở lại giống như lông rùa không thể chấp trước, thì biết tất cả cảnh giới bị chấp từ trước đến nay đều do thức biến, đều từ tưởng sinh; lìa thức không có trần cảnh, thức lặng thì các trần cảnh cũng lặng; lìa tưởng không có pháp, tưởng không thì các pháp cũng không, nhân duyên và tự nhiên đều thành hý luận, hiểu biết phân biệt nào có gốc ngọn, chỉ là ý nghĩ và lời nói không có thật thể. Thông đạt như thế liền ngộ những việc trước là sai, hoàn toàn không thể đợi hoa đốm trong hư không kết thành quả; nắm lấy vật trong chiêm bao muốn giữ kỹ, nhìn cây trụi không còn tưởng là quỉ, sợi dây không thật thì mất ý tưởng con rắn, con nai khát nước không còn chạy theo sóng nắng, con vượn ngưng đùa ánh trăng, bèn lặng nghĩ rỗng lòng như cánh chim bay bổng giữa hư không; tùy duyên dưỡng tính như thuyền không lướt sóng; dứt được cái cũ chẳng tạo cái mới, sống với chân thật mà hợp đạo. Như vậy tính của năm ấm, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới, bảy đại v.v... chẳng phải xưa nay tự nhiên vô nhân mà có, chẳng phải từ ngày nay hòa hợp nhân duyên sinh ra, chỉ do thức tâm phân biệt kiến lập. Nay phá thức tính này thì tính của bảy đại cho đến tất cả pháp đều không, như tìm dòng được nguồn, bắt giặc được tướng thì vô minh, oán đối, sinh tử, ma quân ứng niệm đều tiêu, như nước sôi rót trên băng. Chỉ có Như Lai tạng diệu trạm minh tâm, tính chân viên dung khắp mười phương cõi, như đầm mùa thu sóng lặng chứa cả hư không, mây sáng trời quang không một vật. Vì thế kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A-nan: Ông vẫn chưa rõ tất cả các tướng huyễn hóa phù trần ngay chỗ ấy sinh, theo chỗ ấy diệt; huyễn vọng thuộc về tướng, tính chân của nó là thể sáng suốt của tính giác nhiệm mầu, như thế cho đến năm ấm, sáu nhập, từ 12 xứ đến 18 giới, nhân duyên hòa hợp hư vọng gọi là sinh, nhân duyên biệt ly hư vọng gọi là diệt. Ông chẳng thể biết sinh, diệt, đến, đi vốn là tính chân như nhiệm mầu, thường trụ, diệu minh, bất động, tròn khắp của Như Lai tạng. Trong tính chân thường ấy không thể tìm được sinh tử, đến đi, mê ngộ. Cho nên trước hết phải soi thấu tâm cảnh phân minh sau đó tiêu dung dứt sạch tâm cảnh. T-C-L,T4,Q69,docx trg 21,sách trg 264
NHƯ & TRÍ
Thanh Lương Ký giải thích: Nói Phật không tâm có trí, thành cái lỗi trái nhau. Tâm vương tối thắng còn nói là không, trí không có chỗ nương thì sao có thể đứng một mình, như không có vua làm gì có bầy tôi! Nay trước hết riêng hội hai tông, sau cùng hiệp lại hai tông. Trước hội với pháp tính tông ý nói tâm là như, trí là như trí, lìa tâm không có như thì biết có như là đã có tâm. Huống chi dụng của thể gọi là như trí, thể của dụng là chân như. Như hạt minh châu, thể hạt châu là như, sự chiếu sáng là trí, đâu có thể còn như mà mất tâm.Tập2, Q33,sách trg462,doxc trg22
THƯỜNG KIẾN & ĐOẠN KIẾN
Kinh Thắng Man nói: “Thế Tôn thấy các hành vô thường là đoạn kiến chẳng phải chính kiến, thấy niết-bàn thường là thường kiến chẳng phải chính kiến”. Do vọng tưởng nên thấy như thế, do đó Như Lai chỉ chứng kho bí mật bốn đức niết-bàn.
Hỏi: Kinh nói thấy các hành vô thường là đoạn kiến chẳng phải chính kiến, thấy niết-bàn thường là thường kiến chẳng phải chính kiến, tại sao trong giáo có khi nói vô ngã, có khi nói ngã, đâu chẳng trái nhau ?
Đáp: Nói thường với vô thường, ngã với vô ngã đều là lời nói phương tiện. Do đó Triệu luận ghi: “Bồ-tát đối với chấp thường diễn nói giáo lý vô thường, vì Phật vừa xuất thế liền muốn nói diệu môn viên thường, Phật tính chân ngã. Vì tất cả ngoại đạo đều vọng chấp thần ngã trùm khắp mười phương cõi mà khởi thường kiến. Nếu nói chân thường lạc ngã tịnh, sợ họ lạc vào tà giải nên nhất thời quét sạch tình trần mà nói vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh.Tâp2, Q34 sách trg 464 doxc trg 1