Thiền sư Chân Nguyên:
Hữu thuyết giai thành báng,
Vô ngôn diệc bất dung.
Vị bỉ thông nhất tuyến,
Nhật xuất lãnh đông hồng.
Âm:
Vi vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình .
Âm:
Đạt-ma Tây lai nhất tự vô,
Toàn bằng tâm địa dụng công phu.
Cửu niên diện bích vô ngôn thuyết,
Nhất đán truyền tâm Huệ Khả sư.
Âm:
Nhất điểm tâm đăng tuệ cự sanh,
Tương truyền tứ mục thái phân minh.
Liên phương tục diệm quang vô tận,
Phổ chiếu càn khôn độ hữu tình.
Âm:
Chân Phật chân kinh tổng tại tâm,
Tự gia bảo tạng mạc tha tầm.
Hữu nhân thí vấn Phật hà tại,
Ứng đối đương thời tại nhãn âm.
Âm:
Chân kinh bất dịch bản như thường,
Vị tằng khai khẩu hiển đường đường.
Bất khả nghĩ trì sai thác quá,
Vô sanh nhất cú trực thừa đương.
Âm:
Vô văn vô tự thị chân kinh,
Trường không nhất quyển thái phân minh.
Khẩu tuyên thượng cách tam thiên lý,
Nhĩ thính tăng dao thập vạn trình.
Âm:
Chân Phật chân kinh bản nhất đồng,
Tịch quang viên trạm đẳng hư không.
Thật tế nhất như bao chúng lý,
Quyền khai vạn pháp độ quần mông.
Âm:
Phật pháp diệu lý vô văn tự,
Tổ đạo huyền cơ mạc ngữ ngôn.
Hoằng tiếp hậu lai thông nhất tuyến,
Thượng căn mục kích đạo tâm tồn.
Âm:
Bát-nhã tâm tông thùy lãnh ngộ,
Liễu minh Tự tánh tức Như Lai.
Cá cá viên thành đồng chứng Phật,
Nhân nhân cụ túc bất cầu ai (tha).
Âm:
Kinh, lục trùng trùng phương tiện hải,
Phật Tổ cơ duyên giáo võng bao.
Vô trụ nhất tông Phật tâm ấn,
Hữu vi vạn pháp thủy phù bào.
Âm:
Tam thế Như Lai truyền diệu chỉ,
Nhị nhân tứ mục nhãn tương giao.
Linh nguyên pháp thủy lưu sa giới,
Tuệ chúc quang thông sát hải dao.
Âm:
Bản tùng vô vi lai,
Hoàn tùng vô vi khứ.
Kim ngộ vô vi thân,
Thường trụ vô vi xứ.
Âm: Phó Đại Sĩ
Hữu vật tiên thiên địa,
Vô hình bản tịch liêu.
Năng vi vạn vật chủ,
Bất trục tứ thời diêu.
Âm:
Hữu hình giả tốc vong,
Vô tướng thật cửu trường.
Càn khôn nhậm tạo hóa,
Pháp thân nguyên trụ thường.
Âm:
Thiên địa phụ mẫu vị sanh tiền,
Tịch quang viên trạm thị linh nguyên.
Quảng đại vô vi chu pháp giới,
Ứng vật tùy hình độ hữu duyên.
Âm:
Minh siêu nhật nguyệt trấn như như,
Chiếu triệt càn khôn thước thái hư.
Phật dữ chúng sanh giai nhất tánh,
Viên đồng vô khiếm diệc vô dư.
Âm:
Hoàng hoàng nhất cá chủ nhân ông,
Tịch nhiên bất động tại Linh cung.
Đản đắc thử trung vô quái ngại,
Thiên nhiên bản thể tự hư không.
Âm:
Di-đà Tự tánh bản như như,
Không tịch viên quang thước thái hư.
Phụ mẫu vị sanh chân diện mục,
Đông tây qui khứ tất phùng cừ.
Âm:
Quang minh tịch chiếu biến hà sa,
Phàm Thánh đồng qui cộng nhất gia.
Pháp tánh viên dung chu sát hải,
Trạm nhiên thường trụ tát-bà-ha.
Âm:
Nhất cá tùng lai nhất cá không,
Không trung ẩn hiện thể hoàn đồng.
Vô đầu vô vĩ vô biên tế,
Thường tịch thường quang thường biến thông.
Âm:
Thường tịch quang trung viên mãn giác,
Tỳ-lô đảnh thượng nhậm tung hoành.
Đương xứ Như Lai hằng đối diện,
Tùy cơ phó cảm cứu quần sanh.
Âm:
Tịnh độ phân minh tại mục tiền,
Bất lao đàn chỉ đáo Tây thiên.
Pháp thân nghiễm hỉ siêu tam giới,
Hóa hiện Di-đà tọa cửu liên.
Âm:
Phật thân siêu tam giới,
Tịch quang mãn thái hư.
Hiện hình thủy trung nguyệt,
Vĩnh tác thiên nhân sư.
Âm:
Chánh giác vô lai xứ,
Khứ diệc vô sở tùng.
Thanh tịnh diệu sắc thân,
Thần lực cố hiển hiện.
Phật thân không tịch biến pháp giới,
Đường đường đối nhãn quần sanh loại.
Tùy cơ phó cảm mỵ bất chu,
Tự như ứng hiện lực vô ngại.
Âm:
Pháp tánh Như Lai vô nhất vật,
Ứng độ quần sanh hữu bách ban.
Nhược ngộ chân không hằng địch diện,
Như lai thường trụ tại Linh Sơn.
Âm:
Học đạo vô tông chỉ,
Đa kiến bất như manh.
Tầm quang bất thức bảo,
Đồ lao tự nhãn tình.
Âm:
Âm:
Hữu pháp hữu tâm tồn vọng thức,
Vô cầu vô đắc chứng Chân như.
Chân vọng lưỡng đầu câu đả phá,
Nhất đạo hàn quang thước thái hư.
Âm:
Kiến dữ sư tề,
Á sư thất phần.
Đắc như thị nhân,
Nãi khả truyền thọ.
Thiền Sư LâmTế:
Nhược nhơn tu đạo, đạo bất hành,
Vạn ban tà cảnh, cạnh đầu sanh.
Trí kiếm xuất lai, vô nhất vật,
Minh đầu vị hiển, ám đầu minh.
Tử Dung Hòa Thượng dạy cho Thiền Sư Liễu Quán:
Huyền nhai tán thủ
Tự khẳng thừa đương
Tuyệt hậu tái tô
Khi quân bất đắc .
Âm:
Bách Trượng can đầu bất động nhân
Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân
Bách trượng can đầu tu tấn bộ
Thập phương thế giới thị toàn thân.
Thiền Sư Mông Sơn Đức Bị :
Một hứng lộ đầu cùng
Đạp phiên ba thị thủy
Triệu Châu lão siêu quần
Diện Mục chỉ như thị”.
Thiền Sư Thông Giác Thủy Nguyệt :
Thủy xuất đoan do tẩy thế trần
Trần thanh thủy phục nhập nguyên chân
Dữ quân nhất bát cam lồ thủy
Sái tác ân ba độ vạn dân .
Nghĩa:
Có nói đều thành báng,
Không lời cũng chẳng dung.
Vì anh thông một lối,
Trời mọc núi đông hồng.
Nghĩa;
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày một thêm xa chốn Quê Nhà .
Nghĩa:
Đạt-ma Tây đến một chữ không,
Toàn y tâm địa để dụng công.
Chín năm ngó vách không lời nói,
Một sớm truyền tâm Huệ Khả thông.
Nghĩa:
Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh,
Truyền nhau bốn mắt đã phân rành.
Nối hương tiếp lửa luôn sáng mãi,
Soi khắp đất trời độ hữu tình.
Nghĩa:
Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm,
Kho báu nhà mình chớ chạy tầm.
Có ai thử hỏi đâu là Phật?
Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời).
Nghĩa:
Chân kinh chẳng đổi vốn như thường,
Chưa từng mở miệng hiện tỏ tường.
Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất,
Một chữ vô sanh thẳng thừa đương.
Nghĩa:
Không văn không chữ đấy chân kinh,
Một quyển trường không quá phân minh.
Miệng nói còn xa ba ngàn dặm,
Tai nghe thêm tiến chục vạn trình.
Nghĩa:
Chân Phật chân kinh vốn một đồng,
Tịch quang tròn lặng suốt hư không.
Thật tế nhất như gồm mọi lý,
Tạm bày muôn pháp độ quần mông.
Nghĩa:
Lý mầu Phật pháp không văn tự,
Cơ huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn.
Rộng tiếp người sau thông một tuyến,
Thượng căn mắt thấy đạo tâm còn.
Nghĩa:
Tâm tông Bát-nhã ai lãnh ngộ,
Rõ ràng Tự tánh tức Như Lai.
Kẻ kẻ viên thành đồng chứng Phật,
Người người đầy đủ chẳng cầu ai.
Nghĩa:
Kinh, lục trùng trùng phương tiện biển,
Cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao.
Một tông vô trụ tâm ấn Phật,
Muôn pháp hữu vi bọt nước xao.
Nghĩa:
Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ,
Hai người bốn mắt đối nhìn nhau.
Nguồn linh nước pháp sa giới chảy,
Đuốc tuệ sáng thông cõi cõi nào.
Nghĩa:
Vốn từ vô vi đến,
Lại từ vô vi đi.
Nay ngộ thân vô vi,
Thường trụ chỗ vô vi.
Nghĩa:
Có vật trước trời đất,
Không hình vốn lặng yên.
Hay làm chủ muôn vật,
Chẳng theo bốn mùa dời.
Nghĩa:
Có hình, giả chóng mất,
Không tướng, thật lâu bền.
Trời đất mặc tạo hóa,
Pháp thân thường trụ luôn.
Nghĩa:
Trước trời đất, mẹ cha chưa sanh,
Tịch quang tròn lặng ấy nguồn linh.
Rộng lớn vô vi trùm pháp giới,
Có duyên đáng độ ứng theo hình.
Nghĩa:
Sáng siêu nhật nguyệt vững như như,
Soi suốt càn khôn rực thái hư.
Phật với chúng sanh đều một tánh,
Tròn đồng không thiếu cũng không dư.
Nghĩa:
Sáng ngời một kẻ chủ nhân ông,
Lặng yên chẳng động ở Linh cung.
Trong đây nếu được không ngăn ngại,
Bản thể thiên nhiên tự rỗng không.
Nghĩa:
Di-đà Tự tánh vốn như như,
Rỗng lặng sáng tròn rực thái hư.
Cha mẹ chưa sanh, mày mặt thật,
Trở về đâu chẳng gặp y ư?
Nghĩa:
Quang minh lặng chiếu khắp hà sa,
Phàm Thánh đồng về chung một nhà.
Pháp tánh viên dung trùm sát hải,
Lặng trong thường trụ tát-bà-ha.
Nghĩa:
Một cái xưa nay, một cái không,
Trong không ẩn hiện thể lại đồng.
Không đầu không cuối không bờ mé,
Thường lặng sáng luôn thường biến thông.
Nghĩa:
Trong ánh tịch quang viên mãn giác,
Trên đảnh Tỳ-lô mặc tung hoành.
Hiện tại Như Lai luôn đối diện,
Tùy cơ cảm đến cứu quần sanh.
Nghĩa:
Tịnh độ rành rành ngay trước mắt,
Chẳng nhọc khảy tay đến Tây thiên.
Pháp thân trang trọng siêu ba cõi,
Hóa hiện Di-đà ngồi chín sen.
Nghĩa:
Thân Phật siêu ba cõi,
Tịch quang đầy thái hư.
Hiện hình trăng trong nước,
Mãi làm thầy trời người.
Nghĩa:
Chánh giác không nơi đến,
Đi cũng không chỗ nào.
Thân thanh tịnh diệu sắc,
Do thần lực hiển hiện.
Phật thân rỗng lặng trùm pháp giới,
Rõ ràng trước mắt quần sanh loại.
Tùy cơ cảm đến khắp mọi nơi,
Tự do ứng hiện đều vô ngại.
Nghĩa:
Pháp tánh Như Lai không một vật,
Ứng độ quần sanh việc cả trăm.
Nếu ngộ chân không, luôn đối mặt,
Như Lai thường trụ ở Linh Sơn.
Nghĩa:
Học đạo không tông chỉ,
Thấy nhiều chẳng bằng mù.
Tìm sáng chẳng biết báu,
Luống nhọc tròng mắt mình.
Nghĩa:
Nghĩa:
Có pháp có tâm còn vọng thức,
Không cầu không được chứng Chân như.
Chân vọng hai đầu đều phá sạch,
Một luồng sáng lạnh rực thái hư.
Nghĩa:
Thấy cùng thầy bằng,
Gần thầy bảy phần.
Được người như thế,
Mới đáng truyền trao.
Nghĩa:
Nếu người tu đạo, đạo chẳng hành,
Muôn ngàn tà cảnh, cạnh nhau sanh.
Gươm trí rút ra, không một vật,
Sáng kia chưa hiện, ám lại minh.
Nghĩa:
Buông tay trên dốc thẳm
Tự tin vào chính mình
Chết đi rồi sống lại
Ai lừa dối được ngươi .
Nghĩa:
Trăm trượng đầu sào vẫn đứng yên
Tuy là được nhập chẳng phải hiền
Đầu sào trăm trượng cần vượt khỏi
Mười phương thế giới thảy thân mình.
Nghĩa:
Đường đi chợt hết bước
Giẫm ngược sóng là nước
Già Triệu Châu quá chừng
Mặt mày chẳng chi khác .
Nghĩa:
Nước cốt tuôn ra rửa bụi trần
Sạch rồi nước lại trở về chân
Cho ngươi bát nước cam lồ quý
Ân tưới chan hòa độ vạn dân.