Nội dung tóm tắc:
Luận Khởi Tín Đại Thừa do Bồ-tát Mã Minh sáng tác Do căn cứ tên ghi ở bản Luận1 , nên những tác giả của các bản sớ giải đều đồng quan điểm rằng, luận Khởi Tín do Bồ-tát Mã Minh trước tác vào thời gian cách đức Phật nhập Niết-bàn khoảng 600 năm (khoảng cuối thế kỷ thứ I và đầu thế kỷ thứ II Tây lịch). Trước luận Khởi Tín đã hiện hữu chủ thuyết Nghiệp cảm Duyên khởi do các Luận sư A-tỳ-đàm đề xướng, nhưng chủ thuyết này chưa giải thích được nguồn gốc của Nghiệp phát xuất từ đâu. Sau đó nghi vấn này đã được chủ thuyết A-lại-da Duyên khởi giải quyết. Dù vậy, giáo nghĩa Duy thức vẫn chưa giải đáp toàn triệt những nghi vấn giữa Mê và Ngộ, giữa Tướng và Tánh, giữa Chúng sinh và Phật, đây là động cơ để luận Khởi Tín ra đời. Vậy chủ thuyết luận Khởi Tín là gì? Thuyết minh gì? Chủ thuyết Khởi Tín là Chân như Duyên khởi hay Như Lai tạng Duyên khởi. Bản thân Chân như có hai mặt, đó là mặt Không như thật (Chân không) - Thể của Chân như; và mặt Bất không như thật (Diệu hữu) - Tướng của Chân như. Như Lai tạng chính là mặt Bất không như thật của Chân như, là kho tàng chứa đựng vô lượng công đức vô lậu, còn được gọi là Nhất Tâm hay Đại thừa. Mặt Thể là mặt tuyệt đối ly ngôn tuyệt tướng, không thể phô diễn; mặt Tướng là mặt tương đối nên có thể vận dụng ngôn ngữ để lý giải. Do thế, trọng tâm giáo nghĩa Khởi Tín là lý giải về Như Lai tạng, hay Nhất Tâm hoặc Đại thừa này đây. Và Như Lai tạng (Nhất Tâm, Đại thừa) chính là cái Tâm đang là của chúng ta chứ chẳng phải cái gì khác. Như Lai tạng là kho tàng tiềm ẩn vô lượng công đức vô lậu, bất sinh bất diệt (mặt tỉnh), là nguồn cội lưu xuất Nhân quả thiện thế gian và xuất thế gian. Do nương vào tự Tướng của Như Lai tạng (Nhất Tâm, Đại thừa) mà có tâm sinh diệt (tâm chúng sinh), tức Như Lai tạng của chúng sinh hiện hữu cả pháp tịnh lẫn pháp nhiễm, nên Như Lai tạng đổi tên thành Thức A-lại-da, để làm cơ sở phát khởi các pháp tịnh, pháp nhiễm; pháp tịnh là Giác, pháp nhiễm là Bất giác. Như vậy, với chủ thuyết Như Lai tạng Duyên khởi, luận Khởi Tín vừa giải đáp tận cùng uyên nguyên các nghi vấn đương thời, vừa hệ thống giáo nghĩa Đại thừa về một mối. Tựu trung, luận Khởi Tín thuyết minh hai vấn đề chính: 1. Khởi phát đức tin chính xác giáo nghĩa Đại thừa (Như Lai tạng, Nhất Tâm). nhằm phổ biến tư tưởng Như Lai tạng Duyên khởi (Chân như Duyên khởi),
Chân như có hai mặt: Mặt Không như thật (Chân không) và mặt Bất không như thật (Diệu hữu) Trí tuệ trong sáng (Thể) và Hoạt dụng siêu việt (Dụng)..
Thức A-lại-da này có năng lực thâu nhiếp và sinh khởi tất cả các pháp: Pháp tịnh là ý nghĩa Giác, pháp nhiễm là ý nghĩa Bất giác.
Tam hiền:thập trụ,thập hạnh,thập hồi hướng.thập thánh:thập địa.
TAM TẾ
Tam tế đối với lục thô mà gọi, về chỉ mạt vô minh (vô minh nhánh nhóc) có sáu thứ tướng thế trọng gọi đó là lục thô. Căn bản vô minh (vô minh cội gốc) có ba tướng trọng rất vi tế nên gọi là Tam tế.
1. Vô minh nghiệp tướng : Nghiệp có nghĩa là động tác. Động tác ban đầu của chơn tâm lẫn lộn vô minh. Làm cho thân tâm mờ tối trước lý “Nhất pháp giới bình đẵng thanh tịnh” tướng trạng mờ tối đó gọi là “Tướng vô minh nghiệp” từ vô minh nghiệp này sanh khởi tướng “năng kiến”
2. Năng kiến tướng : Năng kiến tướng tức là phần chủ thể phân biệt. Mà khi đã có chủ thể phân biệt tất nhiên có đối tượng phân biệt là “Cảnh giới phân biệt”
3. Cảnh giới phân biệt : Tức là đối tượng phân biệt của năng kiến tướng, đó là núi, sông, cây cỏ, hữu tình... các loại chúng sanh.
Trong Tam tế tướng, tướng vô minh nghiệp thuộc thể, tướng năng kiến và tướng cảnh giới là dụng, thể dụng không lìa nhau, một thời đủ ba tướng. Ba tướng này có chỗ còn gọi là nghiệp tướng, chuyển tướng và hiện tướng.
LỤC THÔ
Sáu loại thô tướng. Thuyết minh trình tự sinh khởi các thứ mê vọng của chúng sinh, do Căn bản Vô minh mà sinh khởi ba tế tướng (Tam Tế): Nghiệp, Chuyển, Hiện, Lại duyên vào cảnh giới của Hiện tướng mà sinh khởi sáu loại Mê tướng đối lại với ba tế tướng trước khi mà gọi là Lục Thô. Gồm:
Trí tướng: có nghĩa là đối với cảnh giới sở hiện của Hiện thức, chẳng biết đó là huyễn ảnh sở hiện của Tự Thức. Vọng sinh trí tuệ mà phân biệt các pháp. Đó là pháp chấp câu sinh khởi ra.
Tương tục tướng: có nghĩa là dựa vào sự phân biệt của tra tướng trên mà sinh Lạc cảnh đối với cảnh mà mình yêu thích, đối với cảnh chẳng yêu thích thì sinh đủ mọi loại mê vọng như Khổ thụ, .v.v… liên tục khởi lên chẳng dứt. Đó là pháp chấp phân biệt khởi ra.
Chấp thủ tướng: có nghĩa là đối với các cảnh khổ lạc nói trên, vì chẳng hiểu đó là hư vọng chẳng thực, nên sinh niềm thủ trước rất sâu. Đó là phiền não câu sinh khởi ra.
Kế danh tự tướng: chỉ tướng chuyển đảo kế lượng phân biệt giả danh ngôn thuyết dựa vào các tướng trên mà sinh ra nhiều thứ phiền não.
Khởi nghiệp tướng: chỉ Vọng phân biệt giả danh dựa vào vọng hoặc mà sinh khởi các nghiệp thiện ác.
Nghiệp hệ khổ tướng: chỉ bị buộc vào nghiệp thiện ác mà cảm khổ quả sinh tử. Trong sáu thô tướng thì 4 tướng đầu là Hoặc nhân, tướng thứ năm là Nghiệp duyên, tướng thứ sáu là Khổ quả. [ nguồn H L Thoại}
ba tế, sáu thô là thuộc Chi mạt vô minh.
Tâm nhiễm thì hoạt dụng ở mặt nổi nên được gọi là Chi mạt vô minh, còn Bất giác thì hoạt dụng ở trạng thái tiềm ẩn nên gọi là Căn bản vô minh.