LỤC ĐỘ BA-LA-MẬT

các học giả bây giờ có nhiều vị không hiểu tại sao chỉ có sáu Ba la mật?

Đức Phật trả lời: “Bởi vì bốn Ba la mật sau trợ giúp cho sáu Ba la mật đầu.(pdf trg 122 KINH GIẢI THÂM MẬT)

*

lý do của số lượng 6 độ (và của 4 độ hỗ trợ, thành cái gọi là 10 độ).pdf trg 66 >67 KINH GIẢI THÂM MẬTHT. Thích Trí Quang dịch giải

*

BỐ  THÍ  BA – LA – MẬT

I. Ðịnh Nghĩa

Bố thí là cùng khắp: thí là cho, là trao tặng. cho tất cả mọi người, mọi vật,mọi nơi.Ba la mật nguyênâmtiếngPhạnlàParamita.Người Trung hoa dịch nghĩa là "đáo Bỉ ngạn" nói theo tiếng Việt là"đến bờ bên kia".

Bố thí Ba la mật, tức là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí, có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình và người từ bờ mê lầm của chúng sinh sang bờ giác ngộ của chư Phật.

II.Thành Phần Của Bố Thí Ba La Mật ;

Bố thí có ba thứ;

A; Tài thí là lấy của cải mình đem cho người khác để họ an vui.            

B; Pháp thí là vì chúng sanh diễn thuyết phật pháp để họ mở mang,hiểu biết.

C; vô úy thí,là nếu chúng sanh không có tâm sát hại thì không có gì làm cho  họ sợ hãi.

1. Tài thí. Tài thí tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra cho. Tài thí có hai loại:

a) Nội tài. Là những vật chí thân quí báu nhất của mình như thân mạng, đời sống của mình. Thí nội tài ở đây tức là hy sinh thân mạng,hoặc hiến mô hay hiến xác sau khi mình qua đời để cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan.đó là một việc làm có mang tính cách nhân văn cao đẹp trước là cứu người bệnh sau là phục vụ cho ngành Y học.

Thí nội tài là một cử chỉ hy sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng từ bi, bác ái mới làm được. Nếu còn xem thân mạng mình là quý, là trọng hơn thân mạng kẻ khác thì chắc chắn không bao giờ thực hiện được loại bố thí này.

b) Ngoại tài là những vật thường dùng của mình như thức ăn đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa v.v...Ðem những vật ấy ra cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là thí ngoại tài.

2. Pháp thí. Ðem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quí báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc y theo giới luật của Phật tu hành thành thật để làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh đều là pháp thí. Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả tài thí, và tài thí chỉ giúp người khác đơc túng thiếu về phương diện vật chất trong một thời gian, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng pháp thí giúp đỡ người rất nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức tước; không phải chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho nhiều đời kiếp về sau. Vì những lẽ đó, nên người Phật tử chân chính, không bao giờ bỏ mất một dịp nào mà không làm pháp thí.

3. Vô úy thí. Vô úy nghĩa là không sợ. Vô úy thí là làm cho người khác không sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe thì tưởng như là không quan trọng gì cả. Nhữnh nếu suy nghĩ một cách chín chắn, chúng ta sẽ thấy đức Phật thật vô cùng thâm thúy khi chế ra pháp thí này.

Ðời sống đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Cho nên  nếu làm cho người hết sợ, chính là đã cứu cho họ bớt đi khổ đau trong kiếp sống. Lòng từ bi của đức Phật không nở thấy chúng sinh khổ sở vì sợ, nên đã chế ra phép thí vô úy.

Muốn thực hành pháp môn này, hành giả trước tiên phải luyện cho mình một đức tính đừng sợ gì cả. Mà kẻ tu hành chân chính, hiểu rõ giáo lý của Phật, thì còn sợ gì nữa.Tiền của, họ không tham lam cho nên không sợ mất; danh lợi, họ không màn, nên không sợ thiếu, sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm lý đó mà cõi lòng họ luôn không xao động, nét mặt họ luôn bình tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy hiểm. Người tu hạnh thí vô úy sẵn sàng để nhảy xuống nước vớt người sắp chết chìm, nhảy vào lửa để cứu người sắp chết thiêu, xông vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gõ cửa công,để minh oan cho người vô tội...

Tóm lại, người tu hạnh thí vô úy, hể đi đến đâu thì đem đến đó một nỗi bình tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.

III. Phải Bố Thí Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp

Sự bố thí như đã nói trên, thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có thể làm được. Trong đời, chúng ta thường thấy có nhiều kẻ giàu có đem bạc ngàn bạc vạn ra bố thí, có nhiều người bỏ cả tài sản ra lập nhà thương, ký nhi viện, trường học, có nhiều người dám liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu, nhảy xuống nước cứu người sắp chết đuối; có những kẻ anh hùng đem tài năng ra bảo vệ kẻ yếu hèn.

Về phương diện thí pháp, có nhiều người đi đâu cũng đem đạo lý ra giảng nói, đi đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu đạo, chứng quả.

Nếu nhìn bề ngoài, thì những hành động ấy đều là bố thí cả. Nhưng nếu xét về tâm lý và động lực thúc đẩy bên trong, thì có thể có hai trường hợp khác xa nhau.

1. Bố thí chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong sạch. Chúng ta đã biết bố thí do từ tâm mà ra. Bố thí là một pháp môn để tự độ và độ tha. Những nếu bố thí với một dụng tâm khác như cầu danh, cầu tài lợi (cho ít mà cầu được trả nhiều), hoặc vì ganh đua, hoặc vì muốn làm nhục người chịu ơn, hoặc vì bị ép buộc, hoặc cho với một tâm lý khinh rẻ, hối tiếc hoặc cho với một tâm lý lừa lọc, bất công, thiên vị; nếu bố thí với một tâm lý, một thái độ như thế, thì tất là bố thí chấp tướng.

Chẳng hạn đem tiền của ra lập nhà thương, trường học để được nêu trên báo, để được nhắc nhở đến luôn; hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối để được "người đẹp" tán thưởng; hoặc giết giặc để mong được tấm huy chương, hoặc giảng đạo lý để tỏ ra mình học rộng biết nhiều. Những hành vi bên ngoài đẹp đẽ ấy, bên trong thật không có giá trị gì.

Bố thí với tâm lý, với động lực như thế, không phải là Bố thí Ba la mật; “ Ngài VỈNH GIA nói;  trụ tướng bố thí Phước sanh cỏi trời Chiêu Được kiếp sau  bất như Ý”như vậy là không có kết quả .

2. Bố thí không chấp tướng. Nghĩa là bố thí vớimột dụng ý trong sạch, đúng với ý nghĩa của nó là bố thí; “TAM LUÂN KHÔNG TỊCH” Nhất thiết xả bất thủ thí tướng; vì hành giả tu hạnh bát nhã soi thấy muôn pháp đều vắng lặng,nên tuy thực hành bố thí mà không có Ý tưởng mình là người cho, không chấp vào vật cho, không thấy người nhận  tâm từ bi bình đẳng, nên không sinh tâm vị kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. vì biét tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. vì biết cái ngã không có thật,, không tự cao, tự đại. , mà mình vẩn làm công việc miệt mài đó thôi!.

Bố thí với một tâm địa trong sạch như trên sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, mới đúng là Bố thí Ba la mật.

TRÌ GIỚI BA LA MẬT:

Từ tổ chức lớn đến một sinh hoạt nhỏ đều có kỷ luật hay giới điều thì mới có qui củ và đường lối sinh hoạt để thành đạt mục tiêu. Phật dạy : " Thời không gập Phật hãy lấy giới luật làm thầy ". Kinh Phạm Vỏng : " Giới sáng như mặt nhật, quí báo như ngọc châu anh lạc , các vị Bồ Tát đều do trì giới thanh tịnh mà thành Chánh giác ".

Trì giới Ba la mật :

Trì là giữ giới nghiêm túc. Giới nói đủ là giới luật, là những quy luật hướng dẫn đến đích một cách an toàn. Ba La Mật hành đúng đến đích bình an vô sự, chỉ còn thấy giới luật như một phương tiện đưa người sang sông.

Thành phần của giới luật như sau :

Giới luật tại gia :

Chung cho hàng phật tử nam hay nữ là 5 giới : không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói láo, không uống rượu. Có thêm 3 giới nữa là không trang điểm và ca hát, không nằm giường cao tốt, không ăn phi thời có thể giữ mãi hoặc trong thời gian phát nguyện thọ trì.

Giới luật xuất gia :

- Sa di và Sa di ni gồm 10 giới.

- Thước Xoa Ma ni thêm 6 diều giới và tập 296 hạnh giới.

- Tỳ kheo tăng : gồm 250 giới.

- Tỳ kheo ni. gồm 348 giới.

Giới luật tại gia và xuất gia thông hạnh :

Gọi là giới Bồ Tát. Phật tử tại gia phát tâm Bồ Đề, thọ Bồ Tát giới để rộng bề làm phật sự. Xuất gia trong hàng đại thừa thọ Bồ Tát giới để rộng đường hóa độ chúng sanh.

Hành Giả Trì giới Ba La Mật cần lưu tâm; “Tam-tụ tịnh giới”

A ) Nhiếp luật nghi giới : Giữ đúng không sai phạm 10 giới căn bản và 48 giới phụ thuộc, nghĩa không làm một điều ác nào cả.

B ) Nhiếp thiện pháp giới : Không thụ động đứng yên mà phải quyết tâm làm tất cả các việc lành.

C ) Nhiêu ích hữu tình giới : Học hạnh Bồ Tát, tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xã và ứng dụng làm các điều lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Trì Giới bất khuyết nhi bất Y Giới; vì hành giả tu hạnh bát nhã,tuy quyết chí giữ tịnh giới và không phạm vào, nhưng bằng không huệ soi xét thì không thấy có tướng người giữ giới, có người phạm giới.đó là giữ giới không phạm mà không dựa vào giới.

Phải Trì Giới Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp Ở Đây Có Hai Phần :

Trì giới chấp tướng và trì giới không chấp tướng.

A; Trì giới luật chấp tướng : Giữ có lệ hình thức bên ngoài còn bên trong rất nhiễm ô : háo thắng được khen, tự cao tự đại cho mình hơn người còn khinh dễ người phạm giới, giữ giới bị áp lực, thiếu hoan hỷ, miễn cưỡng,như thế là thiếu thành tâm, là giả dối, đánh lừa mình và người, chẳng ích lợi gì, chỉ thêm mất thời giờ và không phải là trì giới Ba la mật.

Trì giới như thế nào hợp với trì giới Ba La Mật ?

B; Trì giới không chấp tướng : Giữ đúng giới luật hoàn toàn mà không vì danh lợi, không háo thắng, không bị hoàn cảnh ép buộc. Hãy tự coi như một phận sự cần phải tuân để được an toàn cho mình và người. Đó là trì giới Ba La Mật..

Trong khi trì giới, hành giả không hề nghĩ mình giỏi hơn người, cũng không chấp nê theo giới luật, khinh dễ người phạm giới. Hành giả chỉ vì thuận theo đức tánh vốn không nhiễm trước mà làm điều lợi ích cho tất cả chúng sinh và nhìn nhận "trì giới" là bổn phận của mình không thể bỏ qua được. Trì giới như thế mới đúng là trì giới Ba la mật, công đức sẽ vô lượng vô biên.”Muốn Được Như Vậy Hành Giả Phải Hiểu Sâu Sắc Như Thế Nào Là;GIỚI KHAI, GIỚI GIÁ, GIỚI TRÌ, GIỚI PHẠM”.

Và Nói Tóm Tắc Chỉ Có Trì Giới Ba La Mật Mới Có Thể Vượt Qua Được;(Tà chú Tiên Phạm Thiên đạo Sa Tỳ Ca La “ Ca tỳ Kapila” )Mà Đệ Tử Phật Thường gặp Phải Chuyện Thân Bại Danh Liệt .Nói Theo Cách Nhà Quê Là Té Giếng Chết Không Lên được, Hay Té Xuống Vực Núi banh xác, dù chết ở Giếng hoặc banh xác Ở núi chỉ một đời. khi dính vào chú này thì muôn kiếp khó ra được.

“Tánh định ma phục triêu triêu lạc.

Vọng niệm bất khởi xứ xứ an”.

(Chân tánh an định, ma chướng bị h àng phục, nên ngày ngày đều sống trong an vui. Vọng niệm không sinh, mọi nơi chốn đều an nhiên.)

“Sai chi hào ly,

  Thất chi thiên lý”

(chỉ cần sai lầm bằng một mảy tóc, thì sẽ uổng công đi xa cả ngàn dặm)

NHẪN NHỤC BA LA MẬT:

I."Nhẫn" là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng. "Nhục" là điều sỉ nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.Nhẫn nhục Ba la mật là nhẫn nhục đến chỗ cùng tột không còn ai có thể nhẫn nhụ hơn thế nữa.                                                                                                

II. Thành Phần Của Nhẫn Nhục Ba La mật ;                                                                          

A; an thọ khổ nhẫn,là nếu gặp lửa, nước ,đao ,gậy ,khổ đau do những thứ ấy bức bách thì điềm nhiên chịu đựng.                                                                                           

B; Đế sát pháp nhẫn,là quan sát thật kỹ các pháp,thể tánh của chúng hư ảo (không thật, giả dối),mà vốn không sanh, diệt thì an nhiên chấp nhận.                                 

C; Nại oán hại nhẫn,là nếu gặp oán,ghét,độc hại thì an nhiên chịu đựng,  không dụng tâm trả thù.                                                                                       

III. Phải Nhẫn Nhục Như Thế Nào  Mới Ðúng Chánh Pháp?                                    

A. Nhẫn nhục có chấp tướng. Nhẫn nhục vì sợ quyền thế; Nhẫn nhục vì đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được; Nhẫn nhục để mong cầu được người khen, hay được chức trọng, quyền cao; Nhẫn nhục vì khinh bỉ đối thủ, hay tự cho  mình cao hơn người, không thèm chấp nê, phản đối. Nhẫn nhục như thế là Nhẫn  nhục chấp tướng vì còn do dục vọng tham, sân, si, mạn thúc đẩy, chưa phải là Nhẫn nhục Ba la mật.                                                      

B. Nhẫn nhục không chấp tướng; Hành Giả tu hạnh Nhẫn nhục ba la mật, trước hết phải do ý muốn diệt trừ lòng sân hận, kiêu mạn, tất đố, tự ái, tham lam…. Nếu có người chửi mắng,  mình phải bình tĩnh, an trụ bằng nhẫn lực,Hằng huệ soi xét  "Ta có làm điều gì sái quấy không? Nếu có, thì ta bị sỉ nhục là phải, ta nên cảm ơn người. Nếu ta trong trắng, thì những lời sỉ nhục ấy có dính líu gì đến ta đâu". 

                                    

Hơn nữa, người tu Nhẫn nhục còn nhắm mục đích trao dồi lòng từ bi và hỷ xả, ta Nhẫn nhục không oán giận, không trả thù là vì ta thương người, ta muốn xem mọi người như thân thuộc anh em. ta Nhẫn nhục vì ta không muốn cuộc đời là một đấu trường, một bãi chiến, một lò lửa của sân hận, đốt thiêu tất cả.                                                           

(Theo nghĩa hẹp, nhẫn nhục là nhịn chịu mọi nhục nhã và mọi khó khăn trở ngại, và vượt qua chúng một cách bình ổn. Phật Giáo gọi những chướng duyên làm ngăn trở sự tiến tu là ma chướng, gồm ngoại ma (trở ngại do người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài gây ra)và nội ma (trở ngại từ chính thân tâm mình).                                                            

“Theo nghĩa rộng, nhẫn nhục là không sanh tâm khởi niệm khi tiếp duyên xúc cảnh, mà đỉnh cao là Vô   sanh nhẫn hay Vô sanh pháp nhẫn. Trước tất cả pháp, dù thấy nghe hiểu biết mọi sự nhưng tâm Hành Giả không xao động, không chấp trước. Do tâm không nên các pháp đèu không, dù là pháp thế gian hay pháp xuất thế. Đây là ý nghĩa của Vô tâm trong nhà Thiền, nhẫn nhục xứng theo tự tánh nên phù hợp với Ba-la-mật”.

Trong kinh có câu:

“NHẪN, NHẪN, NHẪN, TRÁI CHỦ OAN GIA TÙNG THỬ TẬN !

NHIÊU, NHIÊU, NHIÊU THIÊN TAI VẠN HỌA NHỨT TỀ TIÊU;

MẶC, MẶC, MẶC, VÔ HẠN THẦN TIÊN TÙNG THỬ ĐẮC;

HƯU, HƯU, HƯU, CÁI THẾ CÔNG DANH BẤT TỰ DO”.  

TINH TẤN BA LA MẬT:

I ."Tinh" là tinh chuyên (ròng rặt) một việc không có xen tạp. "Tấn" là tiến tới mãi mãi không dừng, không gián đoạn, Hai chữ tinh tấn nói theo nghĩa thông thường là siêng năng chuyên cần; theo;Ba  Mươi Bảy Đạo Phẩm, Bởi vậy, người siêng năng  Tinh tần làm  tăng trưởng Lộ trình thăng hoa từ thấp lên cao hành giả đã khơi nguồn bắt đầu thấy hướng đi qua bờ giác gia chỉ còn gia hạnh để tô bối công đức cho đến công viên qủa mãn.                     

II. Thành Phần Của Tinh Tấn Ba La Mật .                                                       

Tinh tấn có ba thứ:

A; Bị giáp tinh tấn;  là phát đại tâm nguyện,tu tập các thắng hạnh( áo giáp tinh tân.)

B; Nhiếp thiện tinh tấn,;là tu hạnh phương tiện,tiến thẳng vô thượng bồ đề.

C; lợi lạc tinh tấn; ,là siêng năng giáo hóa chúng sanh đều tu tập theo đạo pháp

III. Phải Tinh Tấn Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp?

Tinh tấn, đều có hai phương diện:

a) Tinh tấn có chấp tướng. Có người trước mặt mọi người, thì rất tinh tấn, lăng xăng làm việc này việc khác, tỏ ra cần mẫn chăm chỉ để được tiếng khen, nhưng khi không ai nhòm ngó, thì lại rất giãi đãi. Có người vì sợ người trên la rầy, quở phạt mà tinh tấn; nhưng khi được tự do, không ai kiểm soát thì lại buông lung. Có người tinh tấn với một tâm lý háo thắng, quyết hơn người để tự cao tự đại.

Tinh tấn với một dụng tâm không trong sạch, như vì danh, vì lợi, vì sự kiêu căng v.v...đều là tinh tấn chấp tướng, không đúng là tinh tấn Ba la mật.

B, Như thế nào tinh tấn cho thật đúng pháp :

Tinh tấn không chấp tướng:

Tinh tấn bằng tâm thành, lịch duyệt qua con người, đến thăng hoa trên con đường Thiện, chứng ngộ Tứ Diệu Đế, quán triệt Thập Nhị Nhân Duyên, Hành ư tinh tấn nhi ly thân tâm;Vì Hành Giả tu hạnh Bát nhã, đối với tịnh hạnh, tuy dũng mãnh siêng năng, nhưng bằng không huệ soi xét mà không thấy có tướng của thân và tâm siêng năng.Đó là hành ư tinh tấn ư nhi thân tâm.

Cho nên Không có năng sở bỉ thử: thì nhân hạnh Bồ Tát được viên mãn, chắc chắn sẽ thành Phật.

THIỀN ĐỊNH BA –LA-MẬT:

I.Thiền định là gì? “Thiền phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền na, xưa dịch là tư duy, nay các học giả dịch là Tĩnh lự. Từ Tư duy có nghĩa là tu tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp”.

“Còn chữ Ðịnh phiên âm theo tiếng Phạn là Tam muội (Samadhi), có nghĩa là tập trung tâm lý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán loạn. Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh lại, ta có một định nghĩa chung: Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho tán loạn, để tâm thể được vắng lặng và cho tâm dụng được mạnh mẽ, hầu quan sát và suy nghiệm chân lý”.

II. Các Loại Thiền định                                                                                               .

“Thiền định có thể gọi là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng thái Tĩnh lự. Song ở Dục giới, tâm lý không thể có được trạng thái ấy, vì nó chỉ phát hiện ở Sắc giới, và Vô sắc giới. Rõ hơn nữa là Thiền thuộc về Sắc giới và Ðinh thuộc về Vô sắc giới. Ở mỗi giới, Thiền và Ðịnh đều phân làm bốn cấp bực từ thấp lên cao, cho nên có danh từ là Tứ thiền và Tứ định”.                           

“Tứ thiền và Tứ định này, tuy là kết qủa của công phu tu tập Thiền định, hay gieo trồng thiện căn, nhưng cũng là chung cho cả Phật Giáo, cả Thế gian pháp. Nói rõ hơn, là dù theo phương pháp Ðạo Phật hay phương pháp nào, nếu có đường lối, có công phu đều có thể đạt đến Tứ thiền và Tứ định; nhưng đây cũng chỉ là thế gian pháp mà thôi”.                                             

“Còn nói về pháp Ðịnh của chư Phật, Bồ Tát và A La Hán thì khác. Ðó là Thiền định thuộc Xuất thế gian pháp, không thể phát hiện trong phạm vi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được.Muốn đạt đến trạng thái Tĩnh lực của các bậc ấy, người ta phải đạt đến sự thoát ly tam giới”.            

“Trước khi mong đến được Ðịnh vô lậu, phải vần đến Thiền, bởi vì Thiền là căn bản của Ðịnh. Có được Tam Minh, lục thông cũng nhờ Thiền. Vả lại, Thiền có công dụng thẩm sát, nghiên cứu. Nếu muốn quan niệm chân lý, tất phải nhờ đến Thiền do đó Thiền là pháp tối yếu cho kẻ học đạo”.                                                               .

Ðứng về phương diện các trình độ của Thiền, kinh sách có dạy như sau:               .

1. Thế gian thiền. Thiền này có hai loại: Căn bản vị thiền và Căn bản tịnh thiền. Căn bản vị thiền gồm có mười hai phẩm, phân làm ba: Tứ thiền, Tứ vô lượng và Tứ không.

Người phàm chán cảnh tán loạn của Dục giới thì tu Tứ thiền. Người muốn phước lớn thì tu Tứ vô lượng. Kẻ nhàm chán cảnh sắc giới chật hẹp thì tu Tứ không. Vì mười hai phẩm Thiền này có thể làm căn bản cho thịện pháp xuất thế gian, nên gọi là căn bản Thiền. Với lại, an trú trong mười hai phẩm ấy, người tu Thiền còn ưa thích cảm giác lạc thọ của Thiền, nên gọi là căn bản vị Thiền. Căn bản vị thiền, phân làm hai: Lục diệu môn và Thập lục đặc thắng. Ai có huệ tánh nhiều thì tu Lục diệu môn, kẻ nào có định tánh nhiều thì tu Thập lục đắc thắng.    

Những ai có huệ tánh và định tánh đều nhau thì có thẻ tu cả hai loại. Vì người ta có thể căn cứ vào pháp Thiền này để phát sinh vô lậu trí, không phải chỉ thuần hữu lậu, như ở Căn bản vị thiền, nên gọi là căn bản tịnh thiền.  Tuy nhiên, cả hai loại đều chỉ là thế gian thiền mà thôi, vì trước thời Phật giáng thế, phép Thiền này đã có.                      

2. Xuất thế gian thiền;  Pháp thiền này làcủa bậc xuất thế. Có bốn thứ Thiền quán: Cửu tướng quán, Bát bối xả quán, Bát thắng xứ quán và Thập nhất thiết xứ quán. Tu bốn thiền quán này, tuy là lấy các pháp hữu vi làm đối tượng suy nghiệm, những có thể đi đến kết quả ly dục, phát sinh vô lậu trí, nên gọi là Xuất thế gian thiền.       

3. Xuất thế gian thượng thượng thiền:                                                                    .

Ðây là pháp Thiền cao tột của các bậc đại nhân. Kinh Ðịa trì có giải về chín môn đại thiền này như sau:                                                                                                   

Một là “Tự tánh thiền”, nghĩa là quán sát thật tướng của tự tâm, không cần lấy đối tượng ngoại cảnh.                                                                                                    

Hai là “Nhất thiết thiền”, có công năng tự hành và hóa tha.                                  

Ba là “Nan thiền”, môn Thiền gian nan, thâm diệu, khó tu.                                  

Bốn là “Nhất thiết môn thiền”, có nghĩa là tất cả các pháp Thiền định đều do môn này mà phát xuất.

Năm là “Thiện nhân thiền”, môn Thiền của những chúng sanh có đại thiện căn cùng tu.

Sáu là “Nhất thiết hạnh thiền”, bao nhiếp tất cả hạnh pháp của Ðại Thừa.             

Bảy là “Trừ não thiền”, có năng lực trừ diệt phiền não, khổ đau cho chúng sinh.

Tám là “Thử thế tha thế lạc thiền”, có năng lực làm cho chúng sinh an lạc trong hiện tại và tương lai.                                                                                                          

Chín là “Thanh tịnh tịnh thiền”, có năng lực đoạn trừ hoàn toàn các hoặc nghiệp, và chứng được Tịnh báo đại Bố đề. Ðến môn Thiền này, tâm ý hoàn toàn thanh tịnh và lại cũng không còn thấy cái tướng thanh tịnh ấy nữa, nên gọi là Tịnh báo.

III. Công Năng Của Thiền định

Theo Bồ Tát hạnh, có thể tu tập Thiền định và đạt đến mười kết quả tốt đẹp sau đây:

Một là được an trụ trong pháp thức uy nghi. Tu Thiền định phải theo pháp thức mà hành trì, như vậy trải qua một thời gian khá lâu, thì ngũ căn được tịch tịnh, chánh định phát khởi, không cần có sự cố gắng mà vẫn được an trụ trong pháp thức oai nghi.

Hai là được thực hành cảnh giới từ bi. Khi tu Thiền định, thì giữ được tâm từ bi, thương yêu chúng sinh, muốn cho tất cả được an ổn.

Ba là không còn phiền não. Nhờ năng lực Thiền định mà các phiền não tham, sân, si, không còn phát sinh nữa.

Bốn là gìn giữ được các giác quan. Không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc lay động.

Năm là vui vẻ lạc thú. Xem Thiền định là một món ăn ngon lành hơn tất cả các món ănm khác trong thế gian.

Sáu là xa lìa được ái dục. Một khi tâm niệm đã lắng yên, ái dục không còn phát sinh và làm nhiễm trước được nữa.

Bảy là chứng được chân không ,những không bao giờ bị rơi vào chỗ chấp đoạn diệt hư vô.

Tám là cởi mở được tất cả những dây trói buộc sự giải thoát.

Chín là khai phát được trí huệ vô lượng và an trú trong cảnh giới Tịch Tĩnh

Mười là đạt đến sự giải thoát thành thục, đến chỗ mà tất cả hoặc nghiệp không còn nhiễu lại được nữa.

TRÍ HUỆ BA LA MẬT:

I. Ðịnh Nghĩa

Trí huệ là gì? "Trí" phiên âm chữ phạn là Phã na; "Huệ" phiên âm chữ Phạn là Bát nhã. "Trí" có nghĩa là quyết đoán; "Huệ" có nghĩa là giản trạch, Tự điển Phật học Trung Hoa định nghĩa như sau: "Trí là biết Tục đế và Huệ là thông hiểu Chân đế". Cũng có thể nói: Trí là thể tánh sáng suốt trong sạch, Huệ là cái Diệu dụng xét soi tự tại. Trí huệ Ba la mật là thể tánh sáng suốt có khả năng soi sáng sự vật một cách thấu đáo tinh tường đến nơi đến chốn, không thể sai lầm được.

II. Các Loại Trí Huệ

Trí huệ như định nghĩa trên là trí huệ của đạo Phật, chứ không phải trí huệ phổ thông, thường dùng trong các sự học hỏi hiểu biết, suy luận hằng ngày trong đời.

Theo triết học Phật Giáo, khả năng nhận thức có hai loại: Hiện lượng và tỷ lượng.

1. Hiện lượng: Là sự nhận biết trực tiếp không cần qua trung gian suy luận. Hiện lượng lại chia làm hai:

Chân hiện lượng, là nhận thức trực tiếp mà đúng.

Tợ hiện lượng, Là nhận thức trực tiếp mà sai

2. Tỷ lượng: Là sự nhận biết qua trung gian suy luận. Tỷ lượng cũng có hai thứ:

Chân tỷ lượng, là lốihiểu biết bằng suy luận đúng đắn.

Tợ tỷ lượng, là lối hiểu biết mà suy luận mà sai lầm.

Hiện lượng của địa vị phàm phu rất kém cỏi và phần nhiều là tợ hiện lượng. Tỷ lượng của địa vị phàm phu lại còn kém cỏi hơn nữa và phần nhiều là tợ tỷ lượng. Ðứng về phương diện tính chất, Ðạo Phật chia trí huệ ra làm hai loại lớn là " Căn bản trí" và " Hậu đắc trí".

A;Căn bản trí: Căn bản trí, là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn, nhưng vì bị phiền   não che lấp, nên chưa phát chiếu ra được.Có thể so sánh căn bản trí như là một chất kim khí quí báu (vàng, bạc) đang ở trong trạng thái khoáng chất, nằm lần lộn với đá (phiền não vô minh)

B; Hậu đắc trí: Hậu đắc trí, là trí huệ có được nhờ công phu tu tập như trì giới, thiền định v.v...Có thể so sánh Hậu đắc trí như chất kim khí (vàng, bạc) được lọc từ khoáng chất ra và không còn lẫn lộn với đất đá, bụi bặm nữa (phiền não, vô minh).

Theo Duy thức học, sau khi đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được "Hậu đắc trí", thì tám thức chuyển thành bốn trí:

1, Năm thức trước (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức) biến thành "Thành sở tác trí" (trí có năng lực nhận thức cùng khắp và thần diệu)

2, Thức thứ sáu, Ý thức có tác dụng là phân biệt, biến thành "Diệu quan sát trí" (trí có năng lực quan sát thâm diệu)

3, Thức thứ bảy, Mtạ na có tác dụng là chấp ngã, biến thành "bình đẳng tánh trí" (trí có năg lực nhận thức cách bình đẳng, vô ngã của vạn pháp).

4,Thức thứ tám, A lại da có tác dụng là chấp trí sanh mạng và chủng tử, được đạt đến địa vị vô lậu và biến thành "Ðại viên cảnh trí" (trí sáng như bức gương lớn và tròn đầy, tượng trưng cho biển cả chơn như).

III. Làm Thế Nào Ðể Có được trí Huệ?

Muốn có được trí huệ, đức Phật chế ra nhiều pháp tu. Trong số nhiều pháp tu ấy thì "Văn, Tư, Tu" và "Giới, Ðịnh, Huệ" là những pháp thường được nhắc nhở và thực hành nhiều nhất.

Văn, Tư, Tu: Văn, Tư, Tu là ba pháp tu để có được trí huệ:

Văn huệ: là huệ do tia nghe âm thanh, mắt thấy âm tự của Phật, hay qua các kinh điển mà hiểu được nghĩa lý.

Tư huệ: là huệ do trí suy nghĩ, tìm tòi, rõ được nghĩa lý, hiểu được sự thật. Tu huệ: là huệ do tu hành thẻ nghiệm và thể nhập chân lý, mà gíac ngộ, chứng được sự thật. Văn, tư, tu rất tương quan mật thiết với nhau, hành giả cần phải chuyên tu cả ba thứ, không thể bỏ qua một thứ nào mà thành tựu được. Hãy nghe Phật dạy:

" Văn huệ, tư huệ, tu huệ, ba môn khuyết một không được. Nếu ai nghe mà không suy nghĩ, thì như làm ruộng mà không gieo mạ; nếu suy nghĩ mà không tu, thì như làm ruộng mà không tát nước, bừa cỏ, rốt cuộc không có kết quả. Ba huệ được đầy đủ thì chứng quả Tam thừa?" (Sa Di thập giới).

Giới: là lời răn dạy của Phật )xem lại bài Trì giới Ba la mật).

Ðịnh: là thiền định, giữ cho tâm ý không loạn động, để suy nghiệm đến những vấn đề căn bản của Ðạo (xem lại bài Thiền Ðịnh Ba la mật).

Huệ: là sự phát chiếu của Trí, sau khi đã tẩy sạch phiền não và vô minh.

Giới, Ðịnh, Huệ tương quan mật thiết với nhau: Do trì giới mà thân tâm không loạn động. Do thân tâm không loạn động mà tâm trí được Ðịnh. Tâm trí khi đã định thì Trí huệ phát chiếu.

Ngược lại, Trí huệ phát chiếu thì tâm dễ Ðịnh, Tâm đã Ðịnh thì Trì giới không khó khăn.

Tóm lại: Giới, định, huệ, đều tương duyên tương quan mật thiết với nhau, một cái tăng thì hai cái kia cũng tăng

IV. Công Năng Của Trí Huệ

Như chúng ta đã thấy trong phần chia loại, trí huệ khi đã đạt đến địa vị Giác ngộ (tám thức chuyển thành bốn trí) thì công năng, diệu dụng của nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết. Tuy thế, để có một quan niệm tương đối rõ ràng, chúng ta có thể nêu lên ba công năng chính của trí huệ như sau:

1. Dứt trừ phiền não: Phiền não là do mê lầm phát sinh. Khi trí huệ đã có thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát ra thì bóng tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất không còn phát sinh nữa.

2. Chiếu sáng sự vật: Sự vật bị vô minh che khuất, như màn sương sớm che phủ cảnh vật, nay trí huệ phát chiếu vào sự vật, chẳng khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương ất phải tan biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được lộ bày như thật.

3. Thể nhập chân lý: Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì người ta với người, ta với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí huệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.

V. Kết Luận

Gíá trị và công năng của trí huệ lớn lao không thể nói hết. Nó là cứu cánh của người Phật tử. Cứu cánh ấy, ma bất năng nhiễu dùng huệ soi xét các pháp vốn không tịch

" Trí huệ là chiếc thuyền kiên cố chở khỏi biển già, bệnh, chết; là ngọn đèn lớn chói sáng  làm tiêu tan vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy phật tử phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng ích cho trí huệ mình".

B.S: D.V.LỘC