Kinh lăng Già “phân biệt là thức, vô phân biệt là trí. Sanh diệt là thức ,chẳng sanh chẳng diệt là trí”.
Phật ca Diếp.-
Dục sanh Ư nhữ Ý,
Ý do tư tưởng sanh,
Nhị tâm các tịch tĩnh,
Phi sắc diệc phi hành
Hoàng nhẫn:
Tự tánh nhược mê,
phước hà khả cứu”
Vua Trần Thái tông:
Thế Tôn niêm khởi nhất chi hoa
Ca Diếp kim triêu đắc đáo gia.
Nhược vị thử vi truyền pháp yếu,
Bắc viên thích Việt lộ ưng xa”.
KHAI KINH KỆ (Vỏ Đế)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải như lai chân thật nghĩa
TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN;BÀI :A
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành
ÂM:
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Đế Châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Chân Không .T.S:
Diệu bản Hư Vô nhật nhật khoa
Hòa phong xuy khởi biến Ta Bà
Nhân nhân tận thức Vô Vi lạc
Nhược đắc Vô Vi thủy thị gia .
N.N.HOÀI NHƯỢNG:
Nhất thết chư Pháp Giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh pháp vô sở trụ.
Nhược đạt tâm địa sở tác vô ngại
Phi ngộ thiện căn thận vật khinh hứa”.
Thiền sư Thạch Cựu:
Bất thức tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhân
Thiền sư Thuần Chân:
Chân tính hữu vô tính
Hà tằng hữu sanhệt
Thân thị sanh diệt pháp
Pháp tính vị tằng diệt”.
ÂM
Hữu tâm vô tướng
Tướng tự tâm sanh
Hữu tướng vô tâm
Tướng tùng tâm diệt
ÂM:
Đạo nãi Thiên Địa tâm,
Ngu si bất giải tầm.
Phá yêu yêu phùng bổ,
Tu dụng thuỷ ma châm.
ÂM
Nhất thốn quang âm nhất thốn kim,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm,
Thất lạc thốn kim dung dị đắc,
Quang âm quá khứ nan tái tầm.
Đại sư Tâm Tịnh:
Giác đạo kiếp không tiên
Không không Bát-nhã thiền
Quả nhân phù hạnh giải
Xứ xứ tức an nhiên.
ÂM:
Bất thị Huyền Môn tiêu tức thâm,
Cao sơn, lưu thuỷ thiểu tri âm.
Nhược năng tầm trước lai thời lộ,
Xích tử y nhiên hỗn độn tâm.
N.chí Thành:
Ngủ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu kính.
Hồi thú chân như,
Pháp hoàn bất tịnh”.
Thiền sư Chân Nguyên:
Quyến thuộc giai xả khứ
Tài hóa tán hoàn tha
Đản trì tự thiện căn
Hiểm đạo sung lương thực
T. S; HIỆN QUAN:
Huyễn pháp giai thị huyễn,
Huyễn tu giai thị huyễn.
Nhị huyễn giai bất tức,…
Tức thị trừ chư huyễn.
Tổ Tùng:
Chân Tâm vốn tịnh,
Nên chẳng tu thiền định…
Vọng tưởng vốn không,
Nên chẳng dứt lìa phiền não”.
ÂM
Tam thiên thất bảo tuy đa
Dụng tận hoàng huy sanh diệt
Nhất cú pháp văn tuy tiểu,
ngộ chi phương chứng bồ đề .
Thiền sư Tịnh Giới :
Thu lai lương khí sảng hung khâm,
Bát đẩu tài cao đối nguyệt ngâm,
Kham tiếu thiền gia si độn khách,
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm..
T.S: Phù Dung Đạo Giai:
Ngộ sắc ngộ thinh.
như thạch thượng tài hoa
Kiến lợi kiến danh.
như nhãn trung trước tiết.
T.S; Hương Nghiêm
Nhất kích vong sở tri ,
Cánh bất giả tu trì
Ðộng dung dương cổ lộ ,
Bất đọa thiểu nhiên ky (cơ) ,
Xứ xứ vô tung tích
Thanh sắc ngoại uy nghi
Chư phương đạt đạo giả
Hàm ngôn thượng thượng ky(cơ).
T.S:xuyên:
Kiến sắc phi can sắc ,
văn thinh bất thị thinh
Sắc thinh vô ngại xứ ,
thân đáo pháp vương thành
T.S.CHÂN NGUYÊN:
Đắc ưu du xứ thả ưu du ,
Vân tự cao phi thủy tự lưu,
Chỉ kiến hắc vân phiêu đại lảng,
Vị văn trầm khước điều ngư chu.
Thiền Sư Chân Nguyên :
Phật thân siêu tam giới,
Tịch quang mãn thái hư.
Hiện hình thủy trung nguyệt,
Vĩnh tác thiên nhân sư.
ÂM
“Sinh tử Niết Bàn du như tạc mộng”.
PHẬT CA DIẾP:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Kinh A Hàm:
Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thọ giả thị
Dục tri lai thế quả
Kim sinh tác giả thị
T.S. TƯ NGHIỆP:
Tạc nhật dạ-xoa tâm
Kim triêu Bồ-tát diện
Bồ-tát dữ Dạ-xoa
Bất cách nhất điều tuyến .
PHỔ HIỀN:
Tha phương thử giới
Trục loại tùy hình
Ứng hiện sắc thân
Diễn dương diệu pháp.
Nê lê khổ thú
Ngạ quỉ đạo trung
Hoặc phóng đại quang minh
Hoặc hiện chư thần biến.
Tuệ trung Thượng Sĩ:
Bắc lý ưu du đầu mã phúc
Đông gia tán đản nhập lư thai.
PHỔ HIỀN
Giai phát bồ đề tâm
Vĩnh xuất luân hồi khổ
Hỏa hoạch băng hà chi địa
biến tác hương lâm .
T.S;BẠCH VÂN ĐOAN:
Nhược năng chuyển vật tức Như Lai
Xuân noãn sơn hoa xứ xứ khai
Tự hữu nhất song cùng tướng thủ
Bất tằng dung dị vũ tam đài.
PHÁP HẢI:
Tức tâm nguyên thị Phật,
Bất ngộ nhi tự khuất.
Ngã tri định huệ nhân,
Song tu ly chư vật.
T.S; MÃN GIÁC :
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dược Sư Lưu Ly Quang:
Thiện dục nhân kiến,
Bất thị chân thiện.
Ác khủng nhân tri,
Tiện thị đại ác.
Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủ
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm”
Thiền sư Viên Chiếu :
Thân như tường bích dĩ đồi thì,
Cử thế thông thông thục bất bi,
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng,
Sắc không ẩn hiện nhậm thôi di .
Đồng Tử, của vân thù:
Diện thượng vô sân cúng dường cụ,
Khẩu lý vô sân thổ diệu Hương.
Tâm lý vô sân thị trân bảo ,
Vô cấu vô nhiễm thị chân thường.
Thiền sư Vạn Hạnh:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
ÂM
Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba;
Dục thoát luân hồi lộ,
Tảo cấp niệm Di Đà.
T.TÔN..TÚC:
Ðốn ngộ tuy đồng Phật
Ða sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Trường Đinh Tử :
Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Thanh mục đổ nhân thiểu (thế)
Vấn lộ bạch vân đầu”.
T.S:Thường Chiếu:
Tại thế vi nhân thân,
Tâm vi như lai tạng,
Chiếu diệu thả vô phương,
Tầm chi cánh tuyệt khoáng.
Tỳ Kheo Mã Thắng:
Chư pháp nhơn duyên sanh,
Diệc tùng nhơn duyên diệt,
Ngã Phật Đại Sa môn,
Thường tác như thị thuyết
Tú tài Trương Chuyết
Quang minh tịch chiếu biến hà sa,
Phàm thánh hàm linh cộng ngã gia.(nhất)
Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,
Lục căn tài động bị vân già.
Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh,
Thú hướng chân như tổng thị tà.
Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.(thị)
ÂM:
Nhất pháp bất lập, vạn pháp giai không.
T.S Chân nguyên:
Nhất điểm hư vô thể bổn không,
Vạn ban tạo hóa giá cơ đồng.
Bao la thế giới càn khôn ngoại,
Trạm tịch hàn quang sát hải trung.
Tại Thánh bất tăng phàm mạc giảm ,
Phương viên tùy khí nhậm dung thông.
Thủy trừng nguyệt hiện thiên giang ấn,
Sắc ánh hoa khai đại địa hồng.
Kinh lăng Già
Thế gian ly sinh diệt
Do như hư không hoa.
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm.
Kinh lăng Già
Nhứt thiết pháp như huyễn
Viễn ly ư tâm thức.
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm.
Kinh lăng Già
Viễn ly ư đoạn thường
Thế gian hằng như mộng.
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm.
Kinh lăng Già
Tri nhơn, pháp vô ngã
Phiền não cập nhĩ diệm
Thường thanh tịnh vô tướng
Nhi hưng đại bi tâm
Kinh lăng Già
Nhứt thiết vô Niết-bàn,
Vô hữu Niết-bàn Phật,
Vô hữu Phật Niết-bàn.
Viễn ly giác, sở giác
Nhược hữu, nhược vô hữu.
Thị nhị tất câu ly.
Kinh lăng Già
Mâu-ni tịch tịnh quán
Thị tắc viễn ly sanh
Thị danh vi bất thủ
Kim thế, hậu thế tịnh".
Kinh lăng Già
Ngã thường thuyết Không-Pháp,
Viễn ly ư đoạn thường,
Sanh tử như ảo mộng,
Nhi bỉ nghiệp bất hoại.
Hư không cập Niết-bàn,
Diệt nhị diệc như thị,
Ngu phu tác vọng tưởng,
Chư thánh ly hữu vô".
B.Trượng Dạy V.N .THÔNG
Tâm địa nhược thông,
Tuệ nhật tự chiếu.
Bồ Đề Đạt Ma.
Giáo ngoại biệt truyền
Bất kỷ văn tự .
Trực chỉ nhân tâm,
Kiến tánh thành Phật .
Thiền Sư Chân Nguyên
Niêm hoa niêm cú cộng tha man,
Vạn pháp không hoa tổng bất can.
Tông, giáo lưỡng vong câu bất nịch,
Linh nguyên tự tại nhậm thanh nhàn.
Thiền Sư Chân Nguyên :
Thừa hư tiếp hưởng giai phi thật,
Bệnh nhãn không hoa trục vọng sanh.
Diệu thể bản nguyên vô sở trụ,
Chân như tự tại nhậm tung hoành.
ÂM
Bản tự viên thành bất giả điêu,
Trú thiên trú địa nhậm tiêu diêu.
Chánh giác bản lai vô nhất vật,
Thông thân bất quải nhất ty hào.
ÂM
Tu tri không lý bản vô hoa,
Quyền vị mê lưu hiện Thích-ca.
Dĩ sắc thanh cầu chung bất kiến,
Nguyên lai chân Phật bản phi tha.
Thiền Sư Chân Nguyên :
Ứng hóa chư Tôn đẳng vọng duyên,
Pháp thân thanh tịnh quảng vô biên.
Thiên giang hữu thủy, thiên giang nguyệt,
Vạn lý vô vân vạn lý thiên.
Ngài tam Bình:
Chỉ thử kiến văn phi kiến văn,
Vô dư Thanh,Sắc khả trình quân.
Cá trung nhược liễu toàn vô sự,
Thể,Dụng hà phòng phân,bất phân.
TRÌ BÁT.T.S :
Hữu tử tất hữu sinh,
Hữu sinh tất hữu tử.
Tử vi thế sở bi,
Sinh vi thế sở hỉ.
Bi hỉ lưởng vô cùng,
Hốt nhiên thành bỉ thử.
Ư chư sinh tử bất quan hoài,
Án tô rô, tô rô, tất lỵ!
Tổ Diệu Hiệp:
Khai trì bất đãi nguyệt
Trì thành nguyệt tự lai !
Âm:
Nhứt bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Kỳ vị sanh tử sự,
Thuyết pháp độ xuân thu.
Dịch:
Dục sanh từ Ý mình,
Ý do tư tưởng sanh,
Cả hai tâm vắng lặng,
phi sắc cũng phi hành.
Dịch:
Nếu tự tánh còn mê
thì phước không sao cứu được”.
Dịch:
Thế Tôn chỉ nhấc một cành hoa,
Ca Diếp sáng nay đã tới nhà.
Nếu bảo đó là truyền pháp yếu
Về Nam ra Bắc lối càng xa).
DỊCH:
Pháp vô thượng rất sâu, mầu nhiệm,
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được;
Tôi nay nghe, thấy, được thọ trì,
Nguyện hiểu nghĩa chơn thiệt Như lai.)
BÀI; B.
Hiểu Đạo không xa xôi,
Quay đầu lại thấy rồi
Thấy ra mau hay chậm,
Là do sức tỉnh hồi .
NGHĨA:
Phật và chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Lưới Đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
NGHĨA:
Hư Không lẽ ấy rất sâu xa
Thổi dịu nơi nơi ngọn gió hòa
Vô Vi tận biết người an lạc
Đạt đến Vô Vi mới là nhà .
NGHĨA
Tất cả pháp đều tự tâm sanh
Tâm không chổ sanh pháp không chổ
trụNếu đạt tâm địa chổ trụ không ngại
chẳng gặp thượng căn dè dặt chớ dạy
NGHĨA
Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Kẻ soi gương mất đầu
NGHĨA
Chân tính thường vô tính
Sinh diệt có bao giờ
Thân là gốc sinh diệt
Pháp tính vẫn như xưa.
NGHĨA
Có tâm không tướng
Tướng tự tâm mà sinh
Có tướng nhưng không có tâm
Tướng sẽ theo tâm mà diệt đi.
NGHĨA
Đạo ấy Thiên Địa tâm,
Người ngu không biết tầm.
Áo rách cần vá lại,
Vá dùng Chính Niệm châm.
NGHĨA
Một tấc thời gian, một tấc vàng,
Tấc vàng khó mua tấc thời gian,
Tấc vàng rơi mất còn dễ kiếm,
Thời gian trôi bẵng mới khó tìm.
Dịch:
Đường giác không kiếp trước
Thuyền Bát Nhã chân không
Nhân quả hóa hợp giải
Ở đâu cũng thung dung.
NGHĨA
Không phải đường tu khó tìm vào,
Cao sơn, lưu thuỷ vắng tri giao.
Nếu biết Khí Thần khi sơ phát,
Bản Tâm sẽ thấy khó chi nao?
NGHĨA
Năm uẩn thân huyễn hoá,
Huyễn làm sao cứu kính.
Xoay lại tìm chân như ,
Pháp trở thành bất tịnh”
NGHĨA
Quyến thuộc đều bỏ đi,
Tiền của trả lại người.
Chỉ căn lành gìn giữ,
Đường hiểm lương thực đầy.
NGHĨA
Pháp huyễn đều là huyễn
Tu huyễn đều là huyễn
Hai huyễn đều chẳng nhận
Tức là trừ các huyễn.
NGHĨA
Tâm Thiền vốn định ,
chẳng trở lại tu.
Phiền não tịch diệt,
chẳng cần lại đoạn”.
NGHĨA
của bảy báu ba ngàn thế giới tuy nhiều
Dùng hết phải hườn sanh diệt
Một câu pháp nghe tuy ít ,
Tỏ ngộ có thể chứng bồ đề.
NGHĨA:
Thu đến, khí trời dịu mát, tâm thần sảng khoái,
Các nhà thơ tài cao bát đẩu nhìn trăng ngâm vịnh,
Thật tức cười những kẻ rồ ngộ trong nhà thiền,
Cớ sao lại lấy ngôn ngữ để truyền tâm cho người?
NGHĨA
Gặp sắc gặp thinh.
như trồng hoa trên đá,
Thấy lợi thấy danh,
Như bụi rơi trong mắt.
NGHĨA:PhÁP HIỆU Trí Nhàn)
Trúc dội quên sở tri
Nào phải do tu trì !
Nhướng mặt đường xưa lộ
Căn hèn giờ bỏ đi
Nơi nơi đều dấu vết
Hình tiếng thảy oai nghi
Khắp chốn bậc đạt đạo
Cho đó là thượng ky "
NGHĨA
Thấy sắc không mê sắc,
nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng ,
sắc tiếng điều không ngại ,
mới đến pháp vương thành
NGHĨA
Được sự thảnh thơi cứ thảnh thơi
Mây tự bay cao nước tự trôi ,
Chỉ thấy mây đen nhồi song nước
Thuyền câu chìm dắm chửa nghe rồi).
NGHĨA
Thân Phật siêu ba cõi,
Tịch quang đầy thái hư.
Hiện hình trăng trong nước,
Mãi làm thầy trời người.
NGHĨA
Sinh tử, Niết Bàn như giấc mộng đêm qua.
NGHĨA:(T.S.Đạo Lâm.“ Ô.Sào.” Nói lại)
Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy”
NGHĨA
Muốn biết nhân đời trước,
Xem thọ báo đời nàỵ
Muốn biết quả đời sau,
Xét việc hiện đương làm!
NGHĨA
Hôm qua tâm dạ-xoa,
Ngày nay mặt Bồ-tát
Bồ-tát cùng Dạ-xoa
Không cách một sợi chỉ.
NGHĨA
Phương này cõi nọ
Tùy loại theo hình
Ứng hiện sắc thân
Tuyên dương diệu pháp
Địa-ngục Ngạ-quỉ
Khổ sở triền miên
Hoặc chiếu ánh sáng tới nơi
Hoặc hiện phép thần biến hóa
NGHĨA:
Xóm Bắc thẫn thờ chui bụng ngựa
Nhà Đông lững thững nhập thai lừa.
NGHĨA
Đều phát tâm bồ đề
Thoát luân hồi bể khổ
Những nơi khô cằn, băng giá
Đều biến thành đất tốt rừng xanh
NGHĨA
Ai người chuyển vật tức Như Lai
Xuân đến khắp đồi hoa rộ nở
Buồn nỗi tay thô không mềm mại
Làm sao diễn đạt điệu Tam Thai.
NGHĨA
Tức tâm vốn là Phật,
Chẳng ngộ là tự khuất ,
Ta biết nhân định huệ,
Song tu lià vạn pháp.
NGHĨA
Xuân ruổi trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa tươi.
sự đời dòng nước chảy,
Tuổi già đầu tóc phai.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước một cành mai.
NGHĨA
Làm thiện muốn người thấy,
Đó chưa là thật thiện .
Làm ác sợ người biết,
Đó mới là đại ác.
NGHĨA
Chim nhạn bay dài qua không trung
Ảnh chìm dưới dòng sông lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Sông không có lòng lưu lại bóng hình.
NGHĨA:
Thân thể người ta như vách đến lúc đỗ nát,
Tất cả người đời đều vội vả, ai mà chẳng buồn
Nhận thức được rằng tâm là không, vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiện mặc nó đổi dời.
NGHĨA
Trên mặt không sân đồ cúng dường Trong
miệng không sân xuất diệu hươngTrong
tâm không sân là trân bảo,
Không nhơ không nhiễm là chân thường
NGHĨA
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thịnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
NGHĨA
Sông ái sóng ngàn thước,
Bể khổ dậy muôn trùng;
Kiếp luân hồi muốn thoát,
Sớm gấp niệm Di Đà.
NGHĨA
Giác ngộ tuy đồng tánh Phật
Nhiều đờinghiệp thức sâu.
Gió dừng sóng vẫn vỗ
Lý hiện niệm còn vương.
NGHĨA
Một bát cơm ngàn nhà
Thân chơi muôn dặm xa
Mắt xanh xem người thế
Mây trắng hỏi đường qua”
NGHĨA
Thân tuy sống trên đời,
Tâm là như lai tạng,
Chiếu rạng cả mười phương,
Nhưng tìm thì biệt dạng.
NGHĨA
Các pháp do nhơn duyên mà sanh ra,
Cũng tùng theo nhơn duyên mà tiêu diệt,
Đức Phật của ta ngài Đại Sa môn,
Thuờng hay chỉ dạy lý thuyết như vậy.
NGHĨA:
Quang minh tịch chiếu khắp hà sa,
Phàm thánh hàm linh chung một nhà.
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện,
Sáu căn vừa động bị che lòa.
Muống trừ phiền não càng thêm bệnh.
Nhắm đến chân như đều là tà.
Tùy thuận mọi duyên không quái ngại.
Niết-bàn sanh tử thảy không hoa.
NGHĨA:
Một pháp chẳng lập, mọi sự đều không.
NGHĨA:
Một điểm rỗng rang thể vốn không,
Muôn điều tạo hóa ấy cơ đồng.
Bao la thế giới ngoài trời đất,
Lặng ánh hàn quang cõi cõi trong.
Ở Thánh chẳng thêm phàm chẳng bớt.
Vuông tròn tùy món mặc dung thông.
Nghìn sông nước lắng trăng in bóng,
Hoa nở khắp nơi rực sắc hồng. ”.
NGHĨA
Thế gian rời sinh diệt
Cũng như hoa đốm giữa hư không.
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi.
NGHĨA
Hết thảy các pháp như ảo huyễn
Xa rời với tâm thức.
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi.
NGHĨA
Rời khỏi đoạn và thường
Thế gian thường như mộng
Trí chẳng đắc hữu, vô
Mà hưng khởi tâm đại bi.
NGHĨA
Biết người, pháp đều vô ngã
Phiền não cùng những sở tri chướng
Vẫn thường thanh tịnh, vô tướng
Mà hưng khởi tâm đại bi.
NGHĨA
Thảy thảy không có Niết-bàn
Không có Phật Niết-bàn
Không có Niết-bàn của Phật
Xa rời giác, sở giác
Dù hữu, dù vô hữu
Hai thứ ấy đều xa rời.
NGHĨA
Quán tịch tịnh Mâu-ni
Làm cho viễn ly sanh khởi.
Quán ấy gọi là bất thủ
Ðời này, đời sau đều tịnh.
NGHĨA
Ta thường thuyết lý chơn không,
Xa lìa chấp đoạn và thường .
Sanh tử như mộng ảo,
Nghiệp ấy cứ luôn còn.
Hư không cùng Niết-bàn,
Tịch diệt cũng như vậy,
Ngu phu tạo vọng tưởng,
Chư Thánh lìa Có, Không".
NGHĨA
Khi đất tâm được thông suốt
Thì mặt trời trí tuệ tự nhiên chiếu tới.
NGHĨA
Truyền riêng ngoài giáo ,
Chẳng lập văn tự .
Chỉ thẳng vào tâm người ,
Thấy tánh thành Phật .
NGHĨA
Giơ hoa niêm cú gạt người thôi,
Muôn pháp không hoa chẳng kéo lôi.
Tông, giáo cùng quên đều chẳng đắm,
Nguồn linh tự tại mặc thảnh thơi.
NGHĨA
Theo rỗng tiếp vang đều chẳng thật,
Không hoa mắt bệnh tùy vọng sanh.
Cội nguồn diệu thể không chỗ trụ,
Chân như tự tại mặc tung hoành.
NGHĨA
Vốn tự nhiên thành chẳng tạc điêu
Chống trời chỏi đất mặc tiêu diêu.
Xưa nay Chánh giác không một vật,
Toàn thân chẳng dính mảy tơ hào.
NGHĨA
Nên biết trong không vốn chẳng hoa,
Vì kẻ mê, quyền hiện Thích-ca.
Đem sắc thanh cầu trọn chẳng thấy,
Xưa nay chân thật tự nơi ta.
NGHĨA
Chư Tôn ứng hóa thảy vọng duyên,
Pháp thân thanh tịnh rộng vô biên.
Ngàn sông có nước, ngàn sông nguyệt,
Muôn dặm không mây muôn dặm thiên.
NGHĨA
Chỉ Thấy,Nghe này chẳng phải Thấy,Nghe,
Tuyệt không thanh, sắc để trình ông.
Trong đây nếu rõ,toàn vô sự,
Thể,Dụng nào cần phân,chẳng phân.
NGHĨA
Có chết ắt có sinh,
Có sinh ắt có chết.
Tử thì người đời buồn,
Sinh thì người đời vui.
Buồn vui, hai cái đều vô cùng,
Bổng nhiên sanh bỉ thử
Với chuyện tử sinh đừng để tâm chi
Án tô rô, tô rô, tất lỵ!
Dịch:
Ðào ao chẳng đợi trăng sao
Khi ao có nước trăng sao hiện về !
Tạm dịch:
Một bát cơm ngàn nhà,
Một thân vạn dặm xa,
Chỉ vì chuyện sanh tử,
Nói Pháp độ người qua.