BÀI 1: “Phù nghiệp hệ thọ thân , vị miển hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi bội. Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế.
Dịch: Bởi do nghiệp trói buộc mà có thân, tức chưa khỏi khổ lụy về thân. Bẩm thụ tinh cha huyết mẹ, tạm mượn các duyên hợp thành. Tuy nhờ tứ đại giử gìn, nhưng chúng thường trái nghịch.Vô thường, già, bịnh chẳng hẹn cùng người.
BÀI 2: Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?
DỊCH: Sáng còn tối mất, chỉ trong khoảng sát na đã qua đời khác. Ví như sương mùa xuân, mốc sáng sớm, phút chốc liền tan. Cây bên bờ vực, dây trong miệng giếng há được lâu bền. Niệm niệm qua nhanh, chỉ trong khoảng sát na, chuyển hơi thởđã là đời sau, sao lại an nhiên để ngày tháng trôi suông vô ích?.
BÀI 3: Phụ mẫu bất cung cam chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự. Miến ly hương đẳng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức. Huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly”
Dịch: Đối cha mẹ chẳng dâng ngon ngọt, với lục thân chí quyết bỏ lìa. Không thể an nước trị dân, nghiệp nhà trọn không nối dõi. Xa làng biệt xóm, cắt tóc theo thầy. Trong thường nhớ nghĩ công phu. Ngoài rộng mở hạnh hòa kính. Thoát hẳn thếtrần, mong cầu giải thoát.
BÀI 4: “Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỷ Kheo. Đàn việt sởtu, khiết dụng thường trụ, bất giải thổn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩhiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại.
Dịch: Sao lại vừa mới lên giới phẩm, liền xưng: Ta là Tỳ Kheo. Dùng của thí chủ, ăn của Thường trụ, không biết xét nghĩ của ấy tự đâu đem đến, lại nói càng: lẽ (đương nhiên) phải hiến cúng. Ăn rồi dụm đầu ồn náo, chỉ nói toàn chuyện tạp thế gian.
BÀI 5: Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẩn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu. Động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất.
DỊCH: Song, một thuở đua vui, không biết vui ấy là nhân của khổ. Nhiều kiếp theo trần,
chưa từng tỉnh lại. Thời giờ mất mát, năm tháng dần dà. Thọ dụng càng nhiều, thí chủ càng được lợi. Hết năm này sang năm khác chẳng chịu trừ bỏ. Chất chứa càng nhiều chỉ để giữ gìn thân huyễn.
BÀI 6: Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỷ Kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử, đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực”.
DỊCH: Đấng đạo sư có lời dạy, răn nhắc Tỳ Kheo: “Tiến đạo nghiêm thân, ba việc thường chớ đủ”. Người nay phần nhiều mê đắm không thôi, ngày lại tháng qua thoạt nhiên đầu bạc. Kẻ hậu học chưa nghe chỉ thú, phải nên rộng hỏi bậc tiên tri. Chớ nói xuất gia trọng cầu ăn mặc.
BÀI 7: Phật tiên chế luật khởi sáng phát mông. Quỹ tắc oai nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thố hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ”.
Dịch: Phật trước tiên chế luật để mở mang hạng sơ cơ. Phép tắc oai nghi sạch nhưbăng tuyết. “ Chỉ trì tác phạm” để kềm thúc kẻ sơ tâm, điều luật chi li để cải sửa những điều dở tệ. Trường giới luật chưa từng học hỏi thì liễu nghĩa thượng thừa làm sao lãnh hội? Đáng tiếc, một đời luống qua, sau rồi ăn năn đâu kịp. Giáo lý chưa từng để lòng, đạo huyền nhân đâu khế ngộ?
BÀI 8: “Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng duy tri cứ ngạo, vị am pháp luật, tập liễm toàn vô, hoặc đại ngữ cao thanh xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn hội tụ vô thù. Oản bát tác thanh thực tất tiên khởi.
Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô, khởi tọa chung chư động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệuTài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn Tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo.”.
Dịch: Đến lúc tuổi đời đã cao, tuổi hạ cũng lớn mà bụng rỗng tâm cao, chẳng chịu nương gần bạn lành chỉ biết một bề kiêu ngạo. Chưa thông kinh luật, sự thúc liễm trọn không, hoặc lớn tiếng to lời nói năng vô độ. Chẳng kính thượng trung hạ tọa, khi tụ họp giống Bà la môn không khác. Khua bát ồn ào, ăn rồi dậy trước. Đi đứng ngang càn, Tăng thể trọn không, ngồi đứng lăng xăng khiến người động niệm. Chẳng gìn mảy phép tắc, chút oai nghi. Lấy gì thúc liễm hậu sanh, tân học nương đâu bắt chước Vừa mới được người cảnh giác liền xưng: Ta là “Sơn Tăng”Chưa nghe lời Phật dạy để hành trì, cứ một bề giữ tánh thô tháo.
BÀI 9: Như tư chi kiến, cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẩm nhiễm nhân gian toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học tư tuân vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sanh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân”.
Dịch: Sở dĩ thấy biết như vậy, chỉ vì tâm ban đầu biếng nhác và theo thói ham ăn mê ngủ. Dần dà theo đời hóa thành thô kệch. Chẳng hay lóng cóng yếu già, gặp việc xây mặt vào vách. Hậu học thưa hỏi không biết lời chi hướng dẫn. Dẫu có giảng nói cũng không hợp với kinh điển. Nếu bi khinh chê liền trách hậu sanh vô lễ. Tâm sân nổi dậy, lớn tiếng nạt người.
BÀI 10: Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thổn tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi.Tự hận tảo bất dự tu, niên vãng đa chư quá cựu. Lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên. Tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy”Vô thường sát quỉ, niệm niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi”.Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số”.
DỊCH: Một mai bịnh nằm trên giường, mọi thứ đau đớn vây quanh bức bách. Sớm tối lo nghĩ, trong lòng lo sợ bồi hồi. Đường trước mịt mờ chưa biết về đâu. Bấy giờmới biết hối hận ăn năn, đợi khát đào giếng sao kịp? Hận mình sớm chẳng lo tu, đến lúc tuổi già nhiều điều tội lỗi. Khi sắp rời bỏcuộc đời sự sống tan rã nhanh chóng, trong lòng khiếp sợ kinh hoàng. (Giống như) lụa thủng chim bay, (cũng vậy) tâm thức theo nghiệp. Như kẻ mắc nợ, ai mạnh kéo trước, trong tâm nhiều mối, nặng đâu sa đó.Vô thường sát hại, niệm niệm không dừng. Mạng sống không thể kéo dài, thời gian không thể chờ đợi.Ba cõi trời người chưa thoát khỏi thì cứ như vậy thọ thân số kiếp không thể tính bàn.
BÀI 11: Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi, lược thân quảng kiến dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán”.
Dịch: Cảm thương than thở, đau xót cực lòng, đâu thể im lời nên cùng nhau nhắc nhở. Tủi vì sanh vào thời mạt pháp, cách Hiền Thánh đã xa. Phật pháp lôi thôi người tu đa số biếng nhác. Thế nên, lược bày chỗ thấy cạn hẹp của mình để khuyên bảo người sau. Nếu không bỏ tánh kiêu căng, thì thật khó mong chuyển đổi.
BÀI 12:Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu.Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí”Tích niên hành xứ, thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị”
Dịch: Phàm người xuất gia là cất bước đến phương trời cao rộng, tâm hình khác tục. Nối thạnh giòng Thánh, hàng phục quân ma, nhằm đền trả 4 ân, cứu giúp 3 cõi. Nếu chẳng như thế, xen lẫn trong chúng tăng, ngôn hạnh hoang sơ, luống hao của tín thí Chỗ đi năm trước, tấc bước không rời, lơ láo một đời, lấy chi nương tựa”.
BÀI 13:Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan. Giai thị túc thực thiện căn, cảm tư dị báo. Tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu. Khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lai nghiệp vô tì.”
Dịch: Huống nãi đường đường tăng tướng, (sáu căn đầy đủ) dung mạo dễ xem. Sở dĩđược như thế là do đời trước đã gieo trồng căn lành nên đời này mới cảm quả báo thế ấy. Lại chỉ biết ngồi sửng khoanh tay, chẳng tiếc thì giờ. Đạo nghiệpkhông nổlực chuyên cần thì công quả do đâu thành tựu? Chẳng những đời nay luống qua, đời sau cũng sẽ vô ích.
BÀI 14: Từ thân quyết chí phi tri, ý dục đẳng siêu hà sở. Hiểu tịch tư thổn, khởi khả thiên diên quá thời”.Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh. Thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương ưng!”Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ, hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn”.
Dịch: Từ giả thân quyến, quyết chí mặc áo nhuộm là ý muốn vượt đến chỗ nào? Sớm tối lo nghĩ, đâu thể dần dà để thời giờ qua mất. Lòng tự hẹn làm rường cột cho Phật pháp, gương mẫu cho đời sau. Thường xét nghĩ như thế mà còn chưa được chút phần tương ưng. Nói ra phải hợp với kinh điển, luận bàn phải noi theo gương mẫu người xưa, hình dung đĩnh đạc, ý chí cao nhàn.
BÀI 15:Viễn hành yếu giả lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu”.Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận”.
Hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục”. Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt”.
Dịch: Đi xa cần nương bạn lành để thường gạn lọc tai mắt. Trú ở cần nên chọn bạn, thường được nghe điều chưa nghe. Nên nói: sanh ta là cha mẹ, tác thành nên ta là bạn bè.
Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy không thấy ướt áo mà dần dần thấm nhuần.Gần gũi kẻ ác, thêm ác tri kiến, sớm tối tạo ác, trước mắt chịu quả báo, chết rồi phải trầm luân. Một phen mất đi thân người, muôn kiếp khó tìm lại được. Lời thẳng trái tai, há chẳng ghi lòng đó sao? (Có thể) mới hay rửa lòng nuôi đức, ẩn tích mai danh, chứa nhóm tinh thần, xa lánh ồn náo.
BÁI 16:Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khởi ngộ chân nguyên”.“Bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu. Thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm”.“Thử tắc phá tam giới, nhị thập ngũ hữu”.
Dịch: Nếu muốn tham thiền học đạo, là môn vượt ngoài phương tiện, thì trong phải hợp với mé huyền và nghiên cứu tường tận cái tinh yếu của đạo. Chọn lựa được chỗ thâm sâu rồi mới có thể khai ngộ được nguồn chơn (tức bản tánh).
Rộng hỏi tiên tri, thân gần thiện hữu. Tông này khó đạt được chỗ nhiệm mầu, cần phải dụng tâm chính chắn. Nếu trong ấy đạt được chánh nhân, đó chính là thềm bực giải thoát.Đây là phá 3 cõi 25 loài.
BÀI 17:“Nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giảdanh”.“Bất dụng tương tâm thấu bạc, đản tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân”.“Nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục. Văn thinh kiến sắc, cái thị tầm thường. Giá biên na biên, ứng dụng bất khuyết”.
Dịch: Trong, ngoài các pháp đều biết không thật.Từ tâm biến khởi, tất thị giả danh”. Chẳng cần đem tâm nương gá, chỉ lòng không gá vật thì vật đâu chướng ngại được người.Mặc tình pháp tánh trùm khắp, chẳng phải đoạn dứt cũng chẳng cần tiếp nối. Nghe tiếng thấy sắc là việc tầm thường. Bên này bên kia ứng dụng không thiếu.
BÀI 18:“Như tư hành chỉ, thật bất uổng phi pháp phục. Diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh sanh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc”. “Thử chi nhất học tối diệu tối huyền. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám”.
Dịch: Nếu làm được như thế, mới thật không uổng mặc áo pháp, cũng là đền đáp bốn ân cứu giúp ba cõi. Đời đời nếu không thối chuyển thì quả Phật quyết chắc được nên. Làm người khách qua lại trong ba cõi, ra vào làm phép tắc cho người. Môn thiền này rất diệu rất huyền. Chỉ cần có đủ quyết tâm, mới biết Phật Tổ không dối.
BÀI 19:“Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp. Tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”.
“Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trú chỉ uy nghi, tiện thị tăng trung pháp khí”. “Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác thắng nhân phương năng quảng ích”. “Khẩn tu trai giới, mạc man khuy du. Thế thế sanh sanh, thù diệu nhơn quả”.
Dịch: Nếu có kẻ bậc trung, chưa thể vượt qua được (phương tiện). Thì phải, đối với giáo pháp lưu tâm, ôn tầm kinh luận. Tinh thông nghĩa lý truyền bá mở mang, tiếp dẫn hậu lai, báo ân đức Phật.Thời giờ chớ nên luống bỏ, phải dùng giáo pháp để phò trì. Đi đứng oai nghi, mới là pháp khí Tăng bảo.
Há chẳng thấy, dây sắn nương cây tùng mà vượt cao lên ngàn trượng. Nương gá nhân lành thù thắng thì mới được lợi ích rộng nhiều. Phải nên thiết tha tu hành trai giới cho thanh tịnh, chớ nên khinh dối bỏ qua. (Như thế) đời đời kiếp kiếp sẽ được nhân quả tốt đẹp.
BÀI 20:“Bất khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lụy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi”.“Cổ vân: Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích”.
Dịch: Chẳng nên thong thả qua ngày, ngẩn ngơ hết buổi. Thì giờ đáng tiếc sao chẳng cầu tu tiến. (Như thế thật là) luốnghao của tín thí, cũng là cô phụ bốn ân. Tích chứa càng nhiều tâm trần dễ lấp, gặp việc ngăn bít, bị người chê cười.
Người xưa nói: Kia trượng phu ta đây cũng thế, chớ tự khinh mình mà lui sụt. Nếu chẳng như thế, luống ở trong cửa đạo dần dà hết một đời, trọn không có lợi Ích
BÀI 21:“Phục vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài. Cử thố khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân. Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh tịch chỉ vị cửu trệ bất thông”. “Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình.
Dịch: Trông mong (các ông) phát chí dũng mãnh, mở lòng rộng xa. Việc làm phải noi gương hàng Thượng đức chớ học kẻ tầm thường. Đời này tự mình quyết đoán, chẳng do người khác liệu giùm. Dứt ý quên duyên, đừng với các trần làm bạn. Tâm không cảnh lặng, chỉ vì hằng lâu ngăn trệ chẳng thông. Hãy đọc kỹ văn này, thường tự nhắc nhở. Cố gắng làm chủ chớ theo tình người. .
BÀI 22:Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tỵ. Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ”. “Cố kinh vân, giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ”. “Cố tri tam giới hình phạt oanh bạn sát nhân. Nổ lực cần tu mạc không quá nhật”.“Thâm tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lữ
Dịch: Nghiệp quả kéo lôi thật khó trốn tránh Tiếng hòa thì vang thuận; hình thẳng thì bóng ngay. Nhân quả rõ ràng há không lo sợ. Cho nên kinh nói: “Giả sử trăm nghìn kiếp, nghiệp đã tạo không bao giờ mất. Nhân duyên khi gặp gỡ, quả báo lại phải chịu.Nên biết, ba cõi hình phạt trói buộc hại người. Gắng sức lo tu chớ luống qua ngày tháng.Biết rõ lỗi lầm nên mới khuyên nhau tu tập. Nguyện trăm kiếp ngàn đời, chỗ chỗ cùng (nhau) làm bạn pháp.
BÀI 23 NÃI VI MINH VIẾT ”
“Huyễn thân mộng trạch ,Không trung vật sắc
Tiền tế vô cùng ,Hậu tế ninh khắc?”
“Xuất thử một bỉ,Thăng trầm bì cực.
Vị miễn tam luân ,Hà thời hưu tức?”
“Tham luyến thế gian ,Ấm duyên thành chất.
Tùng sanh chí lão Nhất vô sở đắc”.
“Căn bản vô minh Nhân tư bị hoặc
Quang âm khả tích Sát na bất trắc”.
“Kim sanh không quá Lai thế trất tắc
Tùng mê chí mê Giai nhân lục tặc”
“Lục đạo vãng hoàn Tam giới bồ bặc
DỊCH:
Thân huyễn nhà mộng Vật sắc trong không
Mé trước không cùng Mé sau đâu biết?
Thoát đây chìm kia Lên xuống cực nhọc.
Chưa khỏi ba đường Bao giờ thôi dứt?
Tham luyến cõi đời Ấm duyên thành chất.
Từ sanh đến già Trọn không gì được.
Căn bản vô minh Nhân đây mê hoặc.
Thời giờ đáng tiếc Khoảnh khắc khó lường
Đời nay luống qua Đời sau ngăn lấp.
Từ mê đến mê Đều do sáu giặc.
Qua lại sáu đường Lăn lóc ba cõi
BÀI 24:
Tảo phỏng minh sư Thân cận cao đức”.
“Quyết trạch thân tâm Khử kỳ kinh cức
Thế tự phù hư Chúng duyên khởi bức?”
“Nghiên cùng pháp lý Dĩ ngộ vi tắc
Tâm cảnh câu quyên Mạc ký mạc ức”.
“Lục căn di nhiên Hành trú tịch mặc
Nhứt tâm bất sanh Vạn pháp câu tức”.
Dịch:
Sớm tìm minh sư Thân gần cao đức.
Gạn lọc thân tâm Bỏ điều gai góc
Đời tự giả hư Duyên nào ép ngặt?
Xét tột pháp lý Chứng ngộ mới thôi
Tâm cảnh đều quên Chẳng ghi chẳng nhớ.
Sáu căn an nhiên Đứng đi lặng lẽ
Một tâm chẳng sanh Muôn pháp đều dứt