“Nước biển chỉ có một vị mặn, đạo của Ta cũng chỉ có một vị là vị giải thoát” là lời vàng của Đức Phật. Nên tất cả các pháp môn tu hành do Đức Phật nói ra đều nhằm một mục đích duy nhất là giải trừ tất cả những khổ đau, phiền não đưa đến an lạc, hạnh phúc chân thật cho chúng ta.Nếu Thiền tông chủ trương “Chỉ thẳng tâm người, thấy tính thành Phật”; Mật tông chủ trương “Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật”; Luật tông chủ trương “Nhiếp thân, miệng, ý vào Thi-la tính”; Pháp Tướng tông chủ trương “Nhiếp tất cả pháp về chơn Duy Thức”; Tam Luận tông chủ trương “Xa rời hai bên vào Trung Đạo”; Thiên Thai tông chủ trương “Mở, bày, ngộ, vào tri kiến Phật”; Hoa Nghiêm tông chủ trương “Lìa thế gian nhập pháp giới”… thì Tịnh Độ tông chủ trương “Một đời vãng sinh, được bất thối chuyển”. Phương pháp có khác nhau, nhưng mục đích giải thoát cuối cùng của các tông phái, pháp môn vẫn như nhau. Cho nên các bậc Đại sư đều nói: “Tịnh độ hợp thời, gồm nhiếp các căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật” quả thật không sai.
«Trần Thái Tông viết: “ Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta, phàm phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và tâm thiên hạ làm tâm của mình”.«
Trần Thái Tông – Ngữ lục vấn đáp môn hạ: Ngàn sông có nước, ngàn trăng hiện, Muôn dặm không mây muôn dặm trời. / Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt, Vạn lý vô vân vạn lý thiên. Tăng khác hỏi:- Được trên phần của học nhân có tu chứng chăng?
Ngài đáp: Nước chảy xuống non nào có ý, Mây ra khỏi núi vốn không tâm. / Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý, Bạch vân xuất tụ bản vô tâm.
Trần Thái Tôn :
" Mây sinh đỉnh Nhạc, mây trắng xóa,
Nước đến Tiêu Tương, nước xanh rờn".
Ý nói: Con người khi đã sinh ra lẽ tất nhiên phải chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, mỗi cái nhân sinh ra cái quả tất yếu, cho nên nếu tu cho thành chính quả, ắt cũng sẽ thành Phật như đức Như Lai.)
Kệ bốn núi (sanh, lão, bệnh, tử của vua Trần Nhân Tôn, tổ trúc lâm)
XUÂN VÃN
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản, bồ đoàn khán trụy hồng.
Núi thứ nhất, sanh
Chân tể huân đào vạn tượng thành
Bản lai phi triệu hựu phi manh
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm
Khước bội vô sinh thụ hữu sinh
Tị trược chư hương, thiệt tham vị
Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thanh
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.
Kệ núi thứ hai, Lão
Nhân sinh tại thế nhược phù âu
Thọ yểu nhân thiên mạc vọng cầu
Cảnh bức tang du tướng hướng vãn,
Thân như bồ liễu tạm kinh thâu
Thanh điêu tích nhật phan lang mấn,
Bạch biến đương niên lã vọng đầu
Thế sự thao thao hồn bất cố
Tịch dương tây chiếu thủy đông lưu
Núi thứ 3, bệnh
Âm dương khiên đức bản tương nhân
Biến tác tai truân cập thế nhân
Đại để hữu than phương hữu bệnh,
Nhược hoàn vô bệnh diệc vô than
Linh đan mạn sá trường sinh thuật,
Lương dược nan linh bất tử xuân
Tảo nguyện viễn ly ma cảnh giới
Hồi tâm hướng đạo dưỡng thiên chân
Núi 4,Tử
Bãi đẳng cuồng phong quát điạ sinh
Ngư ông túy luý điếu chu hoành
Tứ thùy vân hợp âm mai sắc,
Nhất phái ba phiên cổ động thanh
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch
Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh
Tạm thời trần liễm thiên biên tĩnh,
Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh
Trần Thái Tông:
Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt
Vạn lý vô vân vạn lý thiên.
Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm”
Trần Thánh Tông:
Tự thị quyện thì tâm tự tức
Bất quan nhiếp niệm, bất quan thiền”
Tuệ Trung thượng sĩ :
Hành diệc thiền, tọa diệc thiền
Nhất đóa hồng lô hỏa lý liên”
Trần Thái Tông – Tứ sơn kệ:
Tứ sơn liễu bích vạn thanh tùng
Bích liễu đô vô, vạn vật không
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại
Mịch kỳ đả sấn thướng cao phong”
Trần Nhân Tông – Xuân vãn.
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng”
TRẦN THÁI TÔNG
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm du cách nhất trùng quan.
TRẦN THÁI TÔNG
Trúc ảnh tảo giai trần bất động
Nguyệt luân xuyên hải thủy vô ngân.
TRẦN THÁI TÔNG
Nhược thực nhược hư
trúc ảnh tảo giai trần bất động.
Thị không thị sắc nguyệt xuyên hải để thuỷ vô ngân.
T.N TÔNG:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.
Trần Thái Tông:
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình
Trần Nhân Tômg.:
Hoát nhiên Phật tánh đẳng hư không,
Thị hiện vương thân thể diệc đồng.
Quyền thật tinh quang bao chúng lý,
Hiển khai Phật pháp độ quần mông.
Trần Thái-Tông :
Phổ thuyết sắc thân
Vô vị chân nhân xích nhục đoàn,
Hồng hồng bạch bạch mạc tương man.
Thùy tri vân quyện, trường không tịnh,
Thúy lộ thiên biên, nhất dạng san.
Trần Nhân Tông:
Thân như hô hấp tỵ trung khí,
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân.
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú,
Bất thị tâm thường không quá xuân.
Trần Nhân Tông:
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tân vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
TRẦN NHÂN TÔNG:
Nhất thiết pháp bất sanh.
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải.
Chư Phật thường tại tiền.
Hà khứ lai chi hữu .
Lý Nhân Tông: (1)
Sùng Phạm cư Nam quốc
Tâm không cập đệ qui
Nhĩ trường hồi thụy chất
Pháp pháp tận ly vi.
Trần Nhân Tông:
Đăng Bảo Đài Sơn
Địa tịch đài du cổ
Thời lai xuân vị thâm
Vân sơn tương viễn cận
Hoa kính bán tình âm
Vạn sự thuỷ lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm
Hòa thượng Trúc Lâm dịch:
CUỐI XUÂN
Thuở bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
Thiền bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng.
Dịch
Thiên điạ giao thoa vạn vật thành
Nhân duyên hội ngộ sắc và danh
Vì sai hữu niệm quên vô niệm
Bổn trái vô sanh chịu hữu sanh
Muĩ lưỡi mê hương ưa mùi vị
Mắt tai đắm sắc thích âm thanh
Lang thang khách trọ đời phiêu bạt
Xa cách quê hương vạn dặm trình.
Dịch
Bềnh bồng sóng nước kiếp con người
Thọ yểu nào ai cưỡng số trời
Cảnh đã nương dâu làn nắng tắt
Thân như bồ liễu làn sương rơi
Phan lang thưở nọ đầu xanh mướt
Lã vọng năm nay tóc bạc rồi
Sự thế bộn bề, thôi ngoảnh lại,
Vầng hồng gác núi, nước trôi xuôi.
Dịch
Âm dương hoạ phúc vốn theo nhau
Gieo rắc nhân gian nỗi thảm sầu
Vì bởi có thân, nên có bệnh
Nếu như không xác, ắt không đau
Phép tiên, đã mấy ai không chết
Thuốc thánh nào đâu kẻ sống lâu
Xa lánh cõi ma mau tỉnh thức
Trên đường tu đạo sớm quay đầu
Dịch
Lồng lộng khắp nơi trận gió ngàn,
Ông chài say khướt mặc thuyền lan
Bốn bề mây kéo trời u ám
Một giải sống gầm trống giục ran
Tầm tả cơn mưa bay lã tả
Ì ầm tiếng sấm nổ lan man
Giây lâu, tan bụi bầu trời tạnh
Đêm xuống, dòng sông bong nguyệt tan.
Nghĩa:
Ngàn sông có nước ngàn trăng hiện
Muôn dặm không mây muôn dặm trời.
Nước chảy xuống đồi không cố ý,
Mây ra khỏi núi vốn vô tâm.
nghĩa:
Lúc mệt mỏi rồi tâm tự tắt,
Chẳng cần nhiếp niệm, chẳng cần thiền
Nghĩa:
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Trong lửa lò hồng một đóa sen
Nghĩa:
Bốn núi cheo leo vạn khóm xanh,
Muôn lời không cả hiểu cho rành,
Lừa ba chân đó may tìm được,
Lên thẳng non cao sấn bước nhan.
Nghĩa:
Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng.
NGHĨA
Chớ bảo vô tâm ấy là đạo
Vô tâm còn cách một lớp rào.
NGHĨA
Bóng trúc quét sân trần chẳng động
Vầng trăng xuyên biển nước không xao
NGHĨA:
Như thực như hư, bóng trúc quét thềm,
bụi trần chẳng chuyển.
Là không là sắc, trăng xuyên đáy biển,nước không dấu vết.
NGHĨA
Ở đời vui đạo hãy tuỳduyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớhỏi thiền.
NGHĨA:
Phong trần thất thểu làm thân khách,
Ngày một xa quê vạn dặm đường.
Nghĩa:
Rỗng toang Phật tánh tợ hư không,
Thị hiện thân vua thể cũng đồng.
Quyền thật sáng ngời gồm mọi lý,
Mở mang Phật pháp độ quần mông.
Dịch:
Nói rộng sắc thân
Vô vị chân nhân thịt đỏ au,
Hồng hồng bạch bạch chớ lầm nhau.
Ai hay mây cuộn, không toàn tịnh,
Sương biếc bên trời một núi xanh.
Dịch:
Thân như hơi thở qua buồng phổi,
Kiếp tựa mây luồn đỉnh núi xa.
Chim quyên kêu rã bao ngày tháng,
Đâu phải mùa xuân dễ luống qua.
Dịch:
Thị phi buổi sớm theo hoa rụng
Danh lợi mưa đêm với lạnh tàn
Hoa hết mưa ngừng non vắng lặng
Tiếng chim chợt hót báo xuân tàn.
Nghĩa:
Tất cả pháp không sanh.
Tất cả pháp không diệt.
Ai hiểu được như vầy.
Thì chư Phật hiện tiền.
Nào có đến có đi”
Nghĩa:
Nước Nam ngài Sùng Phạm
Tâm không thi đậu về
Tai dài hiện tướng lạ
Pháp pháp thảy nhiệm mầu.
DỊCH thơ Ngô Tất Tố
LÊN NÚI BẢO ĐÀI
Đất vắng đài thêm cổ,
Ngày qua xuân chửa nồng.
Gần xa mây núi ngất,
Nắng rợp ngõ hoa thông.
Muôn việc nước trôi nước,
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tựa lan, nâng ống sáo,
Đầy ngực ánh trăng lồng.
Đấy là thái độ sống an nhiên của trí tuệ trước cảnh đời biến động, vô thường, hệt như thái độ của Nhiếp Chính Ỷ Lan thể hiện cẩm nang mà Lý Thánh Tông để lại từ kinh nghiệm sống giá trị rút ra từ Phật giáo:"Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền định".
Tuê Trung Thượng sỹ đáp: Đạo bất tại vấn, vấn bất tại đạo .nghiã:“Đạo không có trong câu hỏi, câu hỏi không có trong đạo”.
“Tùy duyên nhi bất biến, bất biến nhi tùy duyên”.(xem lại )
“Thùy tri vân quyển, trường không tịch/Thúy lộ thiên biên, nhất dạng san” (Sđd, tr.54). Tạm dịch: Ai hay mây cuốn trời quang đãng / Một rặng xanh biếc góc chân trời.
“Xuân vũ vô cao hạ/Hoa chi hữu đoản trường” (Sđd, tr.105). Tạm dịch: Mưa xuân không cao thấp/Nhành hoa có ngắn dài
chú thích:
(1) Năm Quảng Hựu thứ ba triều Lý (1087) nhằm năm Đinh Mão, Sư viên tịch, thọ 84 tuổi.Vua Lý Nhân Tông có làm bài kệ truy tặng Sư: Thiền Sư SÙNG PHẠM(1004 - 1087)-(Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)